Saturday, July 20, 2024

Ngọc phả Trung Thành Phổ Tế Đại vương ở thôn Phú Nhiêu, xã Bất Nạo, tổng Lương Xá, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông

Ngọc phả Long hầu bộ Thủy Thượng đẳng Trung Thành Phổ Tế Đại vương, là công thần triều Hùng Duệ Vương họ Việt Thường

Chính bản bộ Lễ quốc triều

Xưa nước Việt ta tương truyền triều Kinh 18 nhánh, truyền đến Hùng Duệ Vương tại ngôi, đóng đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, lập nước tên Văn Lang, kinh đô là thành Phong Châu. Duệ Vương có lòng nhân đức như trời, có trí tuệ như thần, rủ áo khoanh tay, lấy việc chăm lo cho nhân dân làm gốc. Đương thời khắp nơi đều gọi là bậc vua hiền.

Đang khi đó ở đất Ái Châu, phủ Kinh Môn, huyện An Lão, châu Cửu Giang có một gia tộc danh tiếng họ Đào, tên là Bột, lấy vợ người trong huyện tên là Phạm Thị Hương. Gia tộc ông Bột kế truyền là dòng dõi quan lại, có nề nếp thơ văn lễ nhạc, lấy việc nhân nghĩa làm gốc. Khi ông Bột ở tuổi 16 đã có trí dũng hơn người, tài năng vượt trội, tinh thông văn võ, ra đi thi ứng tuyển được nêu danh. Vua cho làm chức Thiếu phó, bổ nhiệm là Bộ trưởng Hoan Châu.

Nhận chức được 5-6 năm, trong châu đều yên bình, giàu đủ. Vua lại gọi về triều, thăng chức làm Hình tào Thượng thư. Về sau dẹp được giặc ở Hải Dương, một trận quét sạch, Vua bổ nhiệm làm Bộ trưởng Hải Dương, chủ trị một vùng. Chẳng may bà chính phi mất sớm. Ông lại lấy con gái của huyện lệnh huyện Kim Bảng phủ Lỵ Nhân bộ Giao Chỉ tên là Nguyễn Hương, lập làm Đệ nhị phi nhân. Bà tuổi 19, có đức hạnh kiêm toàn, đẹp người đẹp nết, má phấn môi hồng, mày ngài mắt phượng, thân tự tỏa ra mùi hương thơm, nhan sắc tuyệt trần, thế gian không ai sánh. Từ khi ông bộ trưởng Bột lấy về, loan phượng cùng xứng đôi, cầm sắt giao duyên, uyên ương tình nồng mặn mà, cầm sắt hòa thanh ý tốt. Qua 3-4 năm càng thêm hòa hợp ân ái.

Lại nói, khi ông Bột nhận chức bộ trưởng Hải Dương, cả quận được thanh bình, giàu đủ. Một hôm bỗng nhiên mặt biển không có sóng mà nước dâng ngập khắp thành. Khi đó, ông Bột cùng Đệ nhị phi nhân đi tránh nước lụt bèn lên trên đài cao mà ngồi, dựa vào lan can trên lầu. Lúc ấy, bà phi ngoái nhìn ra dòng nước sông chảy, ngắm cảnh trăng trong nước biếc. Đang khi ngắm cảnh bỗng thấy trên dòng nước có 5 quả trứng nổi lên giữa dòng, trôi thẳng đến trước mặt bà phi.

Năm quả trứng tỏa sáng huy hoàng một vùng mặt nước, trôi đến dưới bên đài gác. Bà phi thấy vậy lấy làm lạ. Ông bộ trưởng cũng quay ra xem, rồi chỉ vào đó nói với bà phi rằng:

  • Đây tất là châu báu dưới biển mà Long quân đem đến cho ta. Phi nhân hãy vớt châu lên xem thử trứng đó như thế nào.

Bà phi bèn vâng mệnh vớt trứng lên xem, được một ổ 5 quả trứng đều sáng rực rỡ như ngọc trắng. Ông bộ trưởng thấy vậy lại nói với bà phi rằng:

  • Đúng là vật lạ quý báu của trời ban.

Liền nói với bà phi thu đem cho vào trong áo để cất giữ. Bỗng nhiên trứng tự nhiên vỡ ra, tiếng vang như sấm, chảy thành nước cả, mùi thơm ngào ngạt. Bộ trưởng và bà phi lấy làm kinh sợ sự việc quái lạ dị thường. Đến khi nước rút đi, bộ trưởng cùng phu nhân đi xuống gác về cung, nghĩ lại sự quái dị của mấy quả trứng, bèn lập đàn cầu đảo trời đất trăm thần để xua đuổi điềm trứng quái. Nửa đêm hôm đó ông bộ trưởng nằm mộng thấy giữa trời có một đám mây bay năm màu. Xem kỹ lại thấy có một mặt rồng, hai mắt rất sáng và to, đôi râu rồng dài trắng, miệng ngậm một dải gấm hồng, dài thả thẳng xuống mặt đất. Ông bèn xem dải gấm đó, thấy có viết bốn câu thơ rằng:

Phó hứa Đào gia ngũ noãn [thần]
Nhất bào cụ xuất ngũ long quân
Thiên tài cộng giáng phù gia quốc
Phúc triệu hà nghi hữu quái vân.

Nghĩa là:

Trao gửi họ Đào năm trứng thần
Một bầu sẽ nở năm Long quân
Thiên tài giúp nước đều cùng giáng
Là phúc không sai, chớ ngỡ ngần.

Vị chủ công đọc xong, dải gấm bỗng nhiên rơi xuống phủ quấn ba vòng lên người ông. Vị chủ công bỗng tỉnh lại, biết là điềm trong mộng. Từ đó phu nhân bỗng có thai. Đến năm Đinh Mão ngày 12 tháng Hai sinh được một bầu, nở ra năm người con trai, đều thực là có diện mạo đẹp đẽ kỳ lạ, thân hình cao lớn, ở trên lưng đều có một hàng vảy cá chạy tới hậu môn hình 28 vì tinh tú, đều là vảy màu đỏ. Vị thứ nhất trên đầu hai bên đều có mọc thịt sừng, hình như quả trứng gà. Vị thứ hai ở dưới chân có 10 cái vảy, đầu dài và hình giống như vuốt rồng, màu như đầu ngọc. Vị thứ ba tay dài quá gối, mặt rộng tai to, sáng như mặt trời hồng mới mọc, mắt phượng mày ngài, mũi rồng hàm én. Vị thứ tư tóc như lông lân, hình xoắn ốc lên phía trên. Vị thứ năm mũi rồng hàm én, mắt tròn sáng như sư tử. Cả năm người đều khác xa người thường, thế gian hiếm có.

Đang khi sinh trời đất mù mịt, mưa to gió lớn nổi lên, sấm sét ầm ầm, nước sông dâng lên tràn vào cửa nhà, rắn vào đầy sân. Người người không dám ở đó, đều sợ hãi trộm nhìn. Đến khi sinh được trăm ngày ông bộ trưởng bèn đặt tên cho năm người con tài tử. Ông thứ nhất là ông Cự. Ông thứ hai là ông Hồng. Ông thứ ba là ông Trưởng. Ông thứ tư là ông Thạch Khanh. Ông thứ năm là ông Quý Lân.

Nuôi dưỡng lớn lên tới lúc 7 tuổi, khi đó các ông đều có khí chất vốn kỳ lạ, khác hẳn người thường. Đức tính khoan dung đại lượng, trí dũng hơn người, tư chất chính trực, trung hòa, thông minh kỳ dị, tài cao vượt thế. Khi đi du hành ở ngoài đường trên đều có một đám mây hình tròn, che trên đầu, bốn phía hào quang sáng rạng rực rỡ, một vùng trong mát. Thân hình tựa rồng kỳ quái. Người đời thấy đều sợ hãi.

 Đến năm 15 tuổi các ông văn võ kiêm toàn, có thuật lạ của thánh thần, sức có thể nâng đỉnh, lực có thể bạt núi, tính lại rất ưa nước. Anh em thường ra chơi ngoài bến sông. Ngày thường tắm ở nơi bến nước. Thường đứng trên đầu sóng, đi trên mặt nước như bay, qua sông như giẫm trên mặt đất. Hoặc có lúc lặn ẩn dưới đáy sông, đến cuối ngày vẫn chưa lên. Những hôm như thế tất thiên hạ có mưa to gió lớn nổi lên mù mịt.  Một tháng vài lần chơi mát như thế. Nhân dân xem xét thấy đều cùng kinh hồn lạc phách, đều gọi là năm thánh giáng trần. Khi đó, ông bộ trưởng đã biết năm người con đúng là mệnh thủy thần khác thường, nhưng không dám tiết lộ cho người trong triều đình biết.

Đến khi lên 16 tuổi, bà phu nhân qua đời (tức là ngày mùng 10 tháng 2). Ông bộ trưởng cùng với năm vị làm lễ chôn cất. Lại nói, khi đó thiên hạ gặp nạn hạn hán, khô cháy cây cỏ trong ba bốn năm liền. Nhân dân trong thiên hạ đều bị đói khát, nhiều bệnh tật. Lại sinh ra trộm cướp. Vua trong lòng thương xót sinh linh, bèn mở trường để tuyển người hiền lương chính trực, có hiếu đễ, anh tài, có học vấn uyên bác, văn võ kiêm toàn, có tài đức để có thể giữ nước yên dân. Hịch truyền đi thiên hạ có ai như vậy thì lên kinh vào đình dự thi.

Do đó, năm ông nghe hịch, trong lòng rất vui mừng, bèn đến bái hỏi cha là ông bộ trưởng cho lên kinh dự thi. Ông bộ trưởng đồng ý. Khi đó năm ông đi đường thủy lên đến kinh thành. Lúc ấy vua Duệ Vương đêm nằm mộng thấy có một người to cao 9 thước đường đường, áo mũ rực rỡ, đai giáp huy hoàng, lại dẫn năm con rồng tiến thẳng đến trước mặt gặp vua. Vua bèn hỏi:

  • Ngài ở đâu đến? Sao lại có năm con rồng dẫn đến cho trẫm?

Người đó nói:

  • Vâng mệnh Hoàng thiên là quyền Thiên tào đại sứ, truyền đem năm rồng giáng thế, dẫn đến cho vua để đảm nhận việc nước. Lại đem đến một chương thơ của trời cho vua mở xem.

Vua nghe vậy bèn nghiêng thân làm lễ, vâng nhận thiên chương, mở ra xem thấy có một bài thơ nhỏ rằng:

Ngũ long phó giáng hứa thần quân
Hữu thị quân phân hữu thị thần
Huynh đệ nhất bào Đào thị xuất
Khả phù ư quốc, tế ư dân.

Nghĩa là:

Năm rồng đem đến giao vua đây
Thực là vua sáng, bề tôi này
Họ Đào cùng bọc anh em đó
Trợ nước giúp dân, đã có ngày.

Vua đọc xong bỗng nhiên tỉnh lại, biết là điềm trong mộng báo ứng, bèn mở trường thi để xem có người tài trong thiên hạ. Khi đó anh em năm vị đến vào trường thi, đều đúng là bậc văn võ thánh thần, tài năng kỳ lạ. Trong trường mây khói mù mịt, gió mát khí lành. Anh tài trong thiên hạ, cùng một trường các sĩ tử đều tôn nhường sợ hãi vậy.

Khi đó anh em cùng lọt vào khoa bảng, vào yết kiết sân rông gặp vua. Vua thấy năm ông diện mạo đường đường, khác lạ so với người thường, đúng là hình ảnh của long hầu, dung nhan của thủy quốc. Vua mừng thầm, nói rằng:

  • Ngày hôm nay vua tôi mới gặp gỡ lần đầu, nhưng trời đã có báo trẫm giao phó cho năm khanh. Nay quả được năm rồng, tất nước nhà sẽ không có tai họa nữa.

Ngày hôm đó vua mở tiệc, lập đàn cầu đảo tế trời đất trăm thần. Vua đứng trước đàn. Năm ông cùng đứng chầu ở dưới. Hai bên trăm quan cùng làm lễ. Vua khấn rằng:

  • Phục trông Hoàng thiên Hậu thổ, các vị bách thần tinh túc cùng đến giáng đàn chứng giám. Trẫm trong mông thấy năm rồng được Hoàng thiên ban xuống để giữ nước giúp dân. Nay lại được năm người con họ Đào, đúng được hiển hiện năm rồng mà Thiên đình đã giáng mệnh. Dám xin Hoàng thiên báo ứng tại đàn.

Bỗng nhiên thấy mây gió nổi lên giáng xuống giữa đàn như được sự chứng giám, tỏ rõ sự hiển ứng của Hoàng thiên. Vua khấn xong trong giây lát bỗng trời đất mù mịt, sấm chớp ầm ầm, mưa gió nổi lên giáng xuống đàn. Vua cùng trăm quan đều lấy làm kinh dị. Làm lễ xong thì mây mù đều tự nhiên ngưng tạnh. Trời đất trong sáng.

Ngày hôm đó vua phong ông thứ nhất là Đông long Thái sư. Ông thứ hai là Tây long Thái phó. Ông thứ ba là Nam long Trưởng lệnh, quyền đảm Trung Hoa tể quốc, làm Thổ Lệnh cai quản thống nhất cầm đầu 50 thủy thần. Ông thứ tư làm Bắc long Thái bảo, cai quản thống nhất thuyền rồng, làm tướng quân Thạch Khanh. Ông thứ năm là Thiếu long Chưởng đài Chính ngự. Lại tăng phong cho thân phụ là ông bộ trưởng làm Đại vương.

Khi ấy thiên hạ thanh bình, không có tại họa hạn hán hay ngập lụt, tất cả đều mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Nhân dân giàu có, đều không lo đói khát, thực là niềm vui cảnh thanh bình. Khi đó vua bèn giao cho năm vị long hầu đi trấn nhậm các phương, kiêm quản chưởng các dải sông nước để làm chủ tể bảo vệ nhân dân. Khi ấy, ông thứ nhất làm chủ tể quận thành Hải Dương, đóng ở ngã ba sông Hồng. Sau nơi đó đều thành nơi cho gia thần phụng thờ. Ông thứ hai làm chủ tể đạo Sơn Tây ở ngã ba hợp lưu của sông Lâm Thao, sông Đà, sông Chiểu, tục gọi là ghềnh Ba Chậu (Triệu). Về sau đất đó dân đều lập đền phụng thờ.

Ông thứ ba là ông Trưởng là chủ tể quận thành Sơn Nam, đóng tại đất trang Tông Chất, huyện Phù Vân, phủ Thường Tín. Cung điện dựng ngự ở nơi trán rồng chỗ ba sông Lương, sông Du, sông Tô hợp lưu, là đất có địa hình quý chín rồng tranh ngọc, núi dựng nước giao, thật là đất anh linh lớn lao, đóng tại ở chính nơi đất trán rồng, theo hướng chính là hướng Quý Đinh, rồng nước cùng chầu ở mặt chính, phượng hoàng nhảy múa ở hai bên. Ông thứ ba là ông Trưởng xây thành và cung điện ở đó.

Ông thứ tư là ông Quý xây thành và cung điện ở thành Kinh Bắc, ngã ba sông Vũ, sông Cẩm, cung đóng ngự ở thế chính đầu vùng đất chim loan. Ông thứ năm xây thành ở Nam Chân, quận Giao Chỉ, ngã ba sông Vạn và cửa biển, cung ngự đóng ở chính cục đầu con lân.

Ba ông Cự, ông Hồng, ông Quý khi vâng mệnh đi dẹp quân Thục, một trận dẹp yên, rồi về nước đi đảm nhận các nơi cung sở đầu sông, đều hóa thành rắn dài trăm trượng, đi xuống sông mà tự hóa sinh bất diệt. Như thế, ông thứ nhất là ông Cự, ông thứ hai là ông Hồng, ông thứ năm là ông Quý đều cùng hóa trước. Vua truyền cho các vùng đất mà các ông trấn nhậm đầu sông và nơi hóa đều lập đền phụng thờ. Sắc phong là Thượng đẳng (vẫn có những tích riêng).

Từ khi năm ông vậng mệnh triều đình đi trị nhậm các nơi để trấn năm phương, bảo vệ cai quản thiên hạ đều được thanh bình, giàu mạnh.

Lại nói, quan Trưởng lệnh là chủ tể một bộ Sơn Nam. Đất trang Tông Chất đều là gia thần tại đó. Khi ấy, nhân dân ở trong trang (tức trang Tông Chất) có 9 tộc chia thành 8 giáp (khi đó các họ Phạm, Lê, Đặng, Bùi, Đỗ, Nguyễn, Hoàng, Trịnh, Trương là 9 tộc), đều theo quan Trưởng Lệnh làm chân tay, gia thần, cộng tất cả được 289 người, đều là những người khỏe mạnh. Ông bèn lấy ba người ở đất đó (tức là trang Tông Chất) cũng là những người có tài, khỏe mạnh, dũng cảm, cùng làm quản thuộc nội đao, phụ trách các gia thần 289 người, cùng quản trị nhân dân, đều là các tì tướng.

Khi đó ba vị Nguyễn Công Minh, Bùi Công Tài, Đặng Công Cán là người phụ trách nội vụ, theo hầu ông (sau ba vị đều hóa, vua cùng phòng làm Bản thổ thần quan, lập miếu thờ ở trong dân). Từ đó nhân dân trang Tông Chất đều chịu ơn đức lớn của ông Trưởng. Triều đình miễn hết đóng góp quân lương. Người ở đất Tông Chất một phương đều nổi danh hiển hách. Nhà cửa giàu quý, đất đai trù phú, mua thềm đất đai, đều là công đức to lớn của ông Trưởng đã nuôi dưỡng nhân dân. Công tựa núi cao, biển rộng, lòng nhân đức như trời đất vô cùng, đều là công nuôi dưỡng vậy.

Lại nói, khi cơ đồ họ Hùng đã đến lúc cuối, thế nước đã cùng. Vua Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử đều theo nhau về tiên hương. Sáu vị công chúa sau chỉ còn hai. Vị thứ nhất là công chúa Tiên Dung. Vị thứ hai là công chúa Mỵ Nương. Cả hai đều là bậc hào kiệt trong giới nữ lưu, là bậc thần thánh trên thế gian, có nhan sắc tuyệt trần, đức hạnh thế gian hiếm có. Công chúa thứ nhất là Tiên Dung được gả cho Chử Đồng Tử quê ở trang Đa Hòa, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, Sơn Nam. Công chúa thứ hai là Mỵ Nương được gả cho Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây. Khi ấy vua chọn được người con rể thiên tài, bèn nhường ngôi cho. Tản Viên Sơn Thánh không nhận, chỉ xin được giúp việc chính sự quốc gia. Được hơn 10 năm, thiên hạ thanh bình, trong phủ không có việc phải lo.

Khi đó, vua gọi ông Trưởng Lệnh cùng với ông Quý Khanh, cả hai anh em cùng về triều chầu vua. Hai ông vâng mệnh về triều. Từ đó vua tôi hợp đức, thiên hạ yên bình. Được vài năm thì Thục chúa nghe đồn rằng Duệ Vương tuổi cao, không có người nối hậu, nhường ngôi cho con rể Tản Viên, bèn tích trữ binh mã hơn 30 vạn quân đến đánh Duệ Vương để chiếm lấy nước ta. Thư từ biên cương gửi gấp về báo. Vua bèn gọi Tản Viên Sơn Thánh cùng ông Thổ Lệnh Trưởng (Trận đó năm anh em ông vẫn còn đủ. Vua có phong tước, chia các đạo đế chiến đấu. Đến khi yên ổn ba ông về triều rồi hóa trước, có tích riêng) cùng đến chầu vua hỏi kế sách. Sơn Thánh tâu rằng:

  • Thần xin được thay thánh giá, tự chọn tướng tài nghênh chiến với tướng Thục ở các đạo bộ binh.

Ông Trưởng Lệnh tâu rằng:

  • Thần xin được nghênh chiến các đạo quân thủy.

Vua đồng ý. Khi đó vua phong Tản Viên Sơn Thánh là Nhạc phủ kiêm Thượng đẳng thần, cai quản cầm đầu 50 sơn thần. Lại phong cho ông Trưởng Lệnh là  Thuỷ tào kiêm Thượng đẳng thần, cai quản cầm đầu 50 thủy thần, tước vị là Trung Thành Đại vương.

Ông Trung Thành đóng giữ quận Sơn Nam, đến Ái Châu, Hoan Châu, châu Bố Chính, quản đến các cửa biển của sông Lương, sông Ô, sông Cửu Đầu, sông Bạch Đằng các mặt nghênh chiến với đạo quân thủy của quân Thục. Sơn Thánh nghênh chiến từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao Bằng, Tụ Long, Bảo Lạc, Côn Lôn, Bắc Tạ đến đất 16 châu. Sơn Thánh cùng Trưởng Lệnh Trung Thành Đại vương cùng dẫn thủy bộ các tướng, mười vạn quân mạnh, một ngàn tàu bè, cùng làm lễ trước bệ rồng. Thủy bộ cùng tiến, thuyền ngựa cùng đi. Một đạo quân của Sơn Thánh tiến thẳng đến các đồn của đại tướng Thục ở Mộc Châu, châu Phù Hoa, Việt Châu.

Một đạo thủy quân của Trưởng Lệnh Trung Thành Đại vương tàu bè thẳng tiến, ra từ cửa biển Thần Phù đến các dải sông từ các vùng Sơn Nam, Hải Dương, Ái Châu, Hoan Châu, châu Bố Chính, sông Ô. Thủy bộ hành quân, cùng ngày đến đánh một trận. Quân Thục thủy bộ đều thua to, chạy tẩu tán. Truy kích chém được ngoài ba ngàn đầu, bắt sống tướng Thục dẫn về kinh thành. Dâng biểu tâu lên là đã dẹp yên quân Thục.

Vua nghe tin rất vui mừng, bèn hạ chiếu triệu hai đạo thủy bộ về. Các đạo đều vâng mệnh trở về triều làm lễ bái yết trước bệ. Vua mở yến tiệc lớn. Từ đó thanh bình. Con vua cháu chúa nhàn du trong thiên hạ.

Khi ấy Trung Thành Đại vương xin vua cho trở về quận cũ (tức các quận Hải Dương, Sơn Nam) để thăm hỏi cha là ông bộ trưởng Bột. Vua đồng ý, ban cho vàng bạc, lụa là, gấm vóc hàng ngàn cân. Ông làm lễ bái tạ, rồi rời xa giá trở về châu quận, trên đường đi đến huyện Kim Bảng, phủ Lị Nhân xứ Sơn Nam thì thấy thân phụ là ông Bột đang về triều để thăm viếng ba vị long hầu đã hóa. Hỡi ôi, xa trông thấy thuyền rồng ở giữa sông Kim Mai thì bỗng nhiên trời đất tối tăm, mưa gió sấm chớp nổi lên. Ngày hôm đó (mùng 10 tháng 11) thuyền rồng của ông Bột chìm mất, ông hóa vậy (Về sau vua phong là Bột Hải Đại vương, lập đền ở nơi đó mà thờ phụng).

Khi đó Trung Thành Đại vương dâng biểu tấu. Vua nghe tin bèn sai quan sứ về nơi hóa làm lễ, truyền cho địa phương lập đền thờ phụng.

Lại nói, làm lễ cho thân phụ xong, vua lại triệu ông về triều, phong là Thổ Lệnh Thống quốc Đại vương, bổ nhiệm nhận thành Phong Châu, trấn giữ thành Bạch Hạc Tam Giang, làm Thống quốc Trưởng Lệnh Đô đài Lạc Long hầu Đại tướng quân.

Từ đó thiên hạ thanh bình, trong phủ vô sự. Quan Trưởng Lệnh xin vua đi chơi thiên hạ, xem xét các nơi là gia thần, tìm xem những nơi đất đẹp có long mạch để lập hành cung thờ cúng. Vua đồng ý. Ông bèn làm lễ ở triều đình. Ngay hôm đó rời xe đi các nơi trong thiên hạ.

Thế là ông đi du chơi vãng ngắm cảnh đến đất quận Sơn Nam. Nhân dân các phủ huyện đều dựng cung nghênh đón, là lễ mừng. Khí đó, ông lập sông Bạch Hạc là cung thứ nhất, thứ hai là bến Tông Chất ở ngã ba sông Lương, ngự ở chính nơi đầu tồng, đều là vùng đất du cung. Cung chính ở đất trang Tông Chất ngự trấn ngã ba nơi sông Lương, sông Du, sông Tô hợp lưu. Đất dựng cung ở tại nơi trán rồng, đều là chín rồng tranh ngọc, tất cả đều quay đầu về chầu ở đất chính cung, mặt trước có án ngọc.

Khi đó ông lại về chơi cung ở thành Tông Chất, truyền dựng một nơi hội tụ ở trong dân ấp. Dòng sông Du chảy tới cung này ở phía trước thì. Thường khi đi lại ông ngự thuyền rồng theo ba sông nhằm hướng sông Du mà tiến vào thẳng đến nơi hội họp trong dân. Ở tại nơi hội họp trước sân còn theo chính cục hướng Quý Đinh, lại lập giếng loa ở phía bên trong ấp để dưỡng khí đẹp của rồng xanh, cho được giàu mạnh người và vật. Ông lại cho làm một nơi bên đường có thế đất một dải vàng để làm cung nơi đất cấm. Năm tháng về đó dừng chân ở lại. Do đó ông là người đã mở ra đất này.

Hai nơi hành cung đều được miễn đóng binh lương. Hôm ấy (tức mùng 10 tháng Tám) xe của ông tiến về đến nơi cung Tông Chất. Nhân dân làm lễ bái mừng. Ông bèn ở lại trong cung (tức là cung sông Lương đất Tông Chất), mở tiệc vui vẻ, bèn gọi nhân dân, phụ lão cùng đến dự tiệc. Đang túc ăn uống tiệc tùng, ông Trưởng Lệnh Đại vương mới làm một bài thơ rằng:

Hà hải chung linh tự xuất thân
Tu my nhĩ mục bất vi bần
Cung đình xứ xứ giai ngô hữu
Hương hoả trường lưu tại xã dân.

Nghĩa là:

Sông biển đúc thiêng vốn xuất thân
Tai mắt tóc mi chẳng thể hèn
Khắp chốn cung đình là ta giữ
Hương lửa mãi lưu trong xã dân.

Lại nói, ông đóng binh ở đó, mở tiệc vui mừng tới hơn 10 ngày. Ông lại rời xe đi chơi các nơi trong thiên hạ, xây dựng hành cung, cộng là 172 nơi. Lại trở về triều, làm biểu dâng tâu xin vua cho các đất có hành cung  làm nơi gia thần sở thuộc. Lại xin ba huyện Phù Vân, Thượng Phúc, Nam Xương đều là nơi gia thần sở thuộc, cùng giữ gìn nơi hội đồng ở cung Tông Chất. Vua đồng ý.

Đến sau đó Thục chúa lại đem trăm vạn quân tinh nhuệ đến đánh Duệ Vương để chiếm nước ta. Vua lại gọi Tản Viên Sơn Thánh cùng với Trưởng Lệnh Đại vương dẫn các đạo quân thủy bộ đánh một trận dẹp yên được. Khi đó ông Trưởng Lệnh ra quân dẹp giặc có làm một bài thơ rằng:

Vạn lý phong lôi, vạn lý vân
Bất từ lao khổ sự quân thân
Trung cần nhất tiết thiên hà phụ
Vạn sự giai phù tại ngã thân.

Nghĩa là:

Vạn dặm gió mưa, vạn dặm mây
Chẳng từ lao khổ, việc vua đây
Một lòng trung cẩn trời không phụ
Muôn sự đều do ở thân này.

Lại nói, sau có giặc rất mạnh ở Hồng Châu. Vua gọi Trưởng Lệnh Đại vương sai đem quân đánh dẹp. Ông vâng mệnh làm lễ tạ, đem quân xuống thuyền rồng, tiến quân theo đường thủy, đánh một trận lớn, bắt được tướng giặc Trương Dũng, chém đều treo dưới cờ chỉ huy. Quân giặc thua to, bỏ chạy. Đuổi theo, chém vô số. Một xe không thoát, một ngựa không còn. Gửi về kinh thành, dâng biểu tấu. Vua bèn hạ chiếu gọi về. Ông vâng mệnh trở về.

Khi đó Trưởng Lệnh Đại vương tiến thẳng về theo đường thủy, dọc vào dải sông Lương nhỏ. Chỉ có hai chiếc thuyền rồng cùng người em ruột là ông Khanh quay thẳng về thành, theo dòng sông lớn là sông Nguyệt Đức mà tiến. Hôm đó (mùng 10 tháng Giêng), hai chiếc thuyền của ông đi thẳng vào trong ấp (tức là ấp trang Tông Chất) theo dải sông Du nhỏ mà vào thẳng cung Hội đồng. Ông bèn bỏ thuyền bên sông mà lên cung. Nhân dân làm lễ bái mừng. Ông mở tiệc vui vẻ, bỏ giáp ngừng ninh, khao thưởng ba quân.

Ở đó đến mùng 10 tháng Sáu, ông lại sai chèo thuyền rồng đi ra chơi bên ngoài cung ở ngã ba sông Lương. Ông lên cung, bỏ ra ngồi nghỉ. Được một lúc bỗng thấy trời đất u ám, giữa ngày mà như đêm, nước sông sóng cả dập dồn. Cá, ba ba, giao long, rắn hoa đều nổi trên mặt nước, cùng hướng về chầu trước cung. Đáy nước ba sông ầm ầm như tiếng sấm vang đến, phá mở một cửa giếng ở trong cung nơi ngự chính. Nước ngập đầy cung. Ông bèn theo dòng nước giếng mà ra trước cung nhập vào ngoài sông. Lại thấy ông cưỡi cá chép, tay cầm thẻ bài ngọc, bỗng nhiên hóa (do đó trước nơi cung có mảng sông nước hình như đuôi cá còn tới nay). Đang khi đó lại thấy thuyền của ông đều có rồng vàng trong thuyền bay ra trước cung ngoài sông thì bay lên trời mà biến. Còn hơn trăm trượng, vảy đỏ rực rỡ. Vạn nhận bỗng mưa to gió lớn.

Khoảng ba ngày sau thấy trời đất trong sáng. Nhân dân đều lấy làm sợ hãi kinh dị, bèn làm biểu dâng tấu lên triều đình. Vua nghe tin vô cùng thương tiếc bề tôi tài giỏi, lại có công lớn với nước, bèn lệnh cho trăm quan đến nơi hóa (tức cung Tông Chất ở ngã ba sông Lương, sau nhà Lê đổi thành cung Đa Chất). Sau cho sửa dựng lại cung sở làm nơi đền hóa chính. Nhân dân địa phương ở đó (tức là ở đền Đa Chất sông Lương) đều phụng thờ. Còn như dân các trang của ba huyện là gia thần sở thuộc về quy tế ở đền hóa chính sông Lương, mỗi năm xuân thu đều đến phụ tế. Để giữ hương lửa ở Tông Chất cho miễn đóng binh lương, ruộng thờ 30 mẫu 3 sào. Hai kỳ xuân thu làm quốc tế.

Trăm quan vâng mệnh đến nơi hóa mà tế. Khi tu sửa đền miếu hoàn thành bèn làm lễ đến xem trong giếng (đi đến nơi đó) thấy giếng ở trong cung nơi ngự chính mà ngài đã hóa có tiếng động ầm ầm như tiếng sấm. Trăm quan thấy việc linh ứng trước mắt, bèn làm lễ tạ. Trở về triều dâng tấu lên vua. Vua nghe vậy thấy đáng xưng là linh ứng. Ngay hôm đó vua phong thêm mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, cho vạn năm hưởng tế lộc cùng với nước nhà, mãi là lệ thức. Lại ban cho áo mỹ cùng với các đồ tế khí, cho phép Tông Chất làm nơi hương lửa hộ nhi, đều miễn đóng binh lương, xuân thu quốc tế. Còn ba huyện cùng là nơi hành cung thần tử, xuân thu phụ tế ở trang Tông Chất tại đền ngã ba Lương. Mỗi năm hai kỳ nhân dân ba huyện đến phụng thờ phụ tế ở đền hóa chính Tông Chất. Ba huyện mỗi kỳ phụ tế nộp 100 quan tiền.

Khi đó vua lại truyền hịch đi thiên hạ các nơi có cung sở trước đây đều lập miếu phụng tự. Cộng là 172 nơi được vua phong. Phong Trung Thành Thượng đẳng tối linh Đại vương, cho phép thôn Phú Nhiêu phụng thờ hương lửa.

Lại nói, về sau vua nhớ nghĩa quân thần, bèn lại truyền lập ở thành Phong Châu nơi ngã ba sông Bạch Hạc một quán tên là Tam Thanh. Lại truyền vẽ tượng, vẽ ông Trưởng, ông Khanh hai tướng tay cầm long đao đứng hai bên trái phải của quán. Ngày tháng vua tưởng nhớ diện mạo hai ông, nên thường ra ngự ở quán đó (tức quán Tam Thanh) để xem thể diện của hai ông. Việc xây dựng đã xong.

Khi triều Hùng mạt vận, thế nước đến lúc cuối, vua nhường ngôi cho Thục vương (tức bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái Hùng Vương). Từ đó trải qua Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng là 349 năm, cho tới khi vua Đường sai Lý Thường Minh làm quan Đô hộ Nam bang.

Bèn tiến đánh giặc Ai Lao. Một hôm Thường Minh dẫn quân đi đến đền Tông Chất huyện Phù Vân (tức đền thiêng nơi ta), đền thiêng Ba Lương.  Một tối quan đô hộ Thường Minh làm lễ cầu khấn xin được âm phù giúp nước, sau này dẹp được giặc sẽ tâu lên vua Đường tăng phong mỹ tự, vạn đời cùng hưởng với nước nhà, cùng hưởng phúc thanh bình. Khấn xong quan đô hộ nằm ở nơi cung chính trong đền. Mộng thấy một người thân cao mười trượng, tay cầm long đao, đường đường đến đứng ở giữa cùng, mà nói rằng:

  • Tôi nghe ngài khấn thỉnh, nên đã đến đây xin được giúp nước nhà.

Đang nói chưa dứt thì ông tỉnh lại, biết là mộng thần cảm ứng báo cho, bèn làm lễ tạ. Sáng ngày dẫn quân tiến thẳng đến thành Phong Châu, lại thấy quán ở bèn đóng quân một đêm tại đó. Thấy hình dạng hai tướng giống y như người trong mộng, ông  vui mừng báo rằng:

  • Nếu quả như đã gặp trong giấc mộng ở đền sông Lương, xin hãy âm phù giúp dẹp giặc thành công. Sau này tất sẽ tấu xin vua Đường phong tăng làm Nam thiên Thượng đẳng phúc thần, vạn đời hưởng lộc, cùng với nước nha yên lành, mãi là lệ thức không đổi, mãi thịnh vậy.

Lý Thường Minh khấn xong, đến nửa đêm lại thấy đường đường hai tướng, thân dài mười hai thước, mũ rồng, giáp vàng, áo gấm, tay cầm long đao. Hai ông múa đao đi tuần du quan trước sân ba vòng. Bỗng nhiên một ông bước một bước sang bến Việt Trì (đến nay do đó còn dấu chân tại bến đá). Tự nhiên biến mất.

Thường Minh tận mắt thấy sự linh nghiệm kỳ dị bèn làm lễ rạ. Ngay hôm đó tiến quân thẳng đến dẹp Ai Lao, một trận là yên. Sau Thường Minh dẹp được giặc Ai Lai, tâu lên vua Đường. Vua bèn tôn xưng là đền thiêng bậc nhất trời Nam, phong tăng là Thượng đẳng phúc thần, vạn đời trời Nam hương lửa cùng với nước nhà hưởng yên lành. Cho phép trang Tông Chất phụng thờ. Phong Trung Thành Phổ Tế Đại vương Hộ quốc An dân Đại vương.

Lại nói, trời Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, thường có nhiều lần anh linh giúp nước cứu dân, nên trải các đời đế vương phong thêm mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, hương lửa vô cùng.

Trung Thành Vương là thủy thần ngã ba sông Lương. Dọc sông có tên thờ là Thổ Lệnh Trưởng. Năm Vĩnh Huy thời Đường Cao Tông Lý Thường Minh là đô đốc Phong Châu, đi qua bên sông, thấy núi sông tươi đẹp, thắp hương cầu khấn, mộng gặp thần nhân. Một xưng là Thổ Lệnh, một xưng là Thạch Khanh, chạy đến đua tài. Thạch Khanh nhảy một bước tới bên bờ Nam đã thấy Thổ Lệnh đến đứng ở bên sông trước. Thạch Khanh lại nhảy tới bờ Bắc, lại thấy Thổ Lệnh đã đứng ở bên bờ sông đó trước. Do vậy mà kính sợ, cho tô tượng phụng thờ. Lý Thái Tông đi thuyền qua đây, cũng có tưởng nhớ công lao, tăng phong mỹ tự là Trung Thành Đại vương. Các triều đại cũng đều có sắc phong.

Truyện Thổ Lệnh đất Phong châu

Thần vốn là hạo khí của núi sông, tục gọi là Thổ Lệnh Trưởng. Xưa tại thời Hán Tấn, có sự linh ứng, bảo vật phúc dân. Trăm họ địa phương được nhận nhiều ơn huệ. Người dân lập một ngôi đền cỏ để làm chỗ cầu đảo, mãi là quy định, đời đời không đổi. Đến những năm Vĩnh Huy nhà Đường, đô đốc Phong Châu là Lý Tiên Minh, là người ôn hòa, cung kính, phong nhã, biết thương vật yêu dân. Là người quản lệnh ở đây, nên các danh thắng trong châu, không nơi nào là ông không ghé chân qua. Do đó, những việc dù là nhỏ trong dân giam, dù là một cái cây một ngọn cỏ mà có sự hoa lệ không thay đổi thì đều định xuống thành tình khúc để nắm bắt được sự kỳ diệu đó. Khi ấy người người đều gọi là vị quan lệnh tốt.

Một hôm ông đi đến cửa sông Bạch Hạc, bỗng trông thấy một quán nhà tranh ba gian, được xây dựng rất sơ sài. Tiên Minh liền đến xem nơi trú nghỉ cùng với phẩm vị tinh tế thì biết đây là ngôi đền cổ linh thiêng, tự nhiên như có sự cảm nhớ, bèn ngẩng lên trời mà than rằng:

  • Bản chức vâng mệnh đến nơi nhân dân muốn để giúp yên nghiệp.  Nhân dân được nhờ ơn sâu của thần là điều mong muốn của bản chức. Nay thấy như ở đây một mảnh đất trong dân gian đã muốn trở thành cô quạnh hoang vắng, nhưng lại vẫn có mấy gian hương lửa, kính ngưỡng sao vẫn đủ đầy, ngày sóc buổi vọng vẫn thiêng thay.

Nên do đó mà có ý tu sửa. Lại xem địa thế nơi đây, trăm tầng dải biếc, ngàn dặm núi xanh, nước tựa như huyền, cùng núi uốn khúc, bàn long cứ hổ, núi đất sừng sững dựng thành một vạt dải đẹp đẽ. Bèn cho kiến thiết gạch gỗ dựng lại, thợ giỏi vẽ tường, tô vách, đẹp mắt đẹp lòng, trở thành một nơi đại danh thắng linh thiêng vậy.

Lại dựng ba pháp tượng cực kỳ to lớn, dựng riêng nhà giải vũ trái phải, cùng tiền đường hậu đường. Lại sai thợ trang sức tô vẽ tượng thần, tùy theo nơi mà bày trí thêm bớt các đồ tinh diệu, đương nhiên anh khí linh thiêng không thể chê được. Nhân đó mà thắp hương khấn rằng:

  • Tôi là chủ quản châu này. Nhân thấy ngôi miếu tranh sơ sài, việc xây tạo mới đã thành. Bây giờ nếu thần kỳ có linh thiêng, xin sớm hiện chân thân đúng như hình dạng thánh tượng vậy.

Bèn trai giới, tắm rửa tinh sạch rồi đi nằm. Đêm đó sau lúc trống canh điểm ba tiếng, bỗng mộng thấy có hai di nhân đến thẳng vào trong nhà, chia hai bên mà ngồi. Một người ngồi ở bên trái, đầu bù xù, răng lộ ra, mặt như hình quả bí, mũi to, râu ria

thần thái đẹp đẽ, đầu quấn khăn gấm vuông đoạn xanh đoạn hồng, thân mang áo khoác lân gấm viền biếc, chân xỏ giầy mây ngao điểu màu đen, tay trái cầm đằng đao, tay phải xếp khiên trúc. Một người ngồi ở bên phải trán rộng, mắt đỏ, mặt tròn như hình bánh, bảy đoạn căn cột xếp thành so le, mắt hổ môi dầy, hình dung cổ quái, đầu đội khăn gấm vuông xen các màu tím hồng, thêu vàng, mình khoác áo bào hoa thêu xanh trắng, chân đi giày sò tía núi nghiêng, vái chào Tiên Minh nói:

  • Đã lâu nghe đại danh của sứ quân như sấm nổ bên tai, nên muốn vội tới đây yết kiến, sau là để bày tỏ ý trịnh trọng. Nay nhân nhớ đến triều xưa nên đặc biết đến để ngồi tiếp ngài.

Tiên Minh thấy hai người diện mạo phong nhã, nói năng trước sau hợp lễ thức, trong lòng rất kính trọng. Tuy nhiên, ngầm nghĩ đây là ai khó có thể luận được, bèn nói:

  • Bản chức vâng sắc Thượng hoàng đến nhận chức phương Nam đến nay đã chưa được một năm, lại gặp được hai tôn tướng đến tiếp, may mắn được cùng nói chuyện, thật là có duyên. Thiết tưởng không phụ chí chiêu mộ tìm hiền hàng ngày. Song ngày tháng đã qua, có điều còn chưa tỏ tường. Xin thỉnh lời giáo huấn cho rõ để có thể biết được quang cảnh vậy.

Hai người cười nói:

  • Chúng tôi đều ở nơi đây, không phải xa xưa gì. Sứ quân đã có lòng mong muốn gặp gỡ, cho nên chúng tôi đặc biệt đến để tạ, sau là đền đáp lại vạn phần ý tốt đó.

Tiên Minh ngạc nhiên nói:

  • Tôi tuy đã đến nhận nơi quan đường, nhưng được một lần gặp mặt, sao lại có mong muốn gặp gỡ. Xin được biết cho tỏ.

Hai nhân nói:

  • Ngày sau sẽ tự biết, không cần phải giải thích.

Tiên Minh nói:

  • Đã được ơn huệ này thì liệu có thể được một lời về nhân tình không?

Hai người nói:

  • Chúng tôi một tên là Thổ Lệnh, một tên là Thạch Khanh, đều là dân bản xứ. Lúc nhỏ thường tập võ nghệ, ít khi thi đấu trực diện. Nay lại được  cùng sứ quân dự tiếp, xin được ra trước sân để so xem ai hơn ai kém. Ai hơn thì ở trước, ai kém ở sau. Để xem hơn thua như thế nào, sau là khỏi phụ công bình sinh học tập.

Tiên Minh vui mừng, liên tục đồng ý. Thế là hai người đến ở trước sân, cầm khiên đối mặt mà đấu nghệ, như hoa lê bái tuyết, như hổ tranh oai, tiến lui như rồng rắn quẫy động. Thạch Khanh thừa dũng dùng một bước nhảy, lại bước thêm một bước đến giữ nơi cửa giới. Không ngờ Thổ Lệnh đã sớm hơn giữ lấy cửa giới, lại còn đã bước thêm hơn một bước.

Tiên Minh hô “ôi” một tiếng lớn, rồi lại kinh sợ mà tỉnh lại, mới biết là một giấc mộng nơi chốn thiêng. Nhớ lại ký ức mờ mờ mà như trong mộng trông thấy vẽ lại anh em như Lý Lã nhân mà thành gió. Phàm có điều lo nghĩ giàu nghèo thiếu thốn thì đến ở đền cầu khẩn, họa phúc thấy đúng như âm báo.

Các triều đại dẫn quân đi qua địa phương này đều mổ súc vật làm lễ yết tế, tất được kỳ công. Lý Thái Tông dẫn quân đi qua phạt Chiêm Thành, thuyền qua nơi đây cầu đảo, tặng phong là Trung Thành Đại vương. Đến này còn sự tặng phong của các triều đại. Thời Trần Nhân Tông năm đầu Trùng Hưng sắc phong là Trung dực Đại vương, hai năm sau tăng thêm hai chữ Võ phụ. Thời Trần Anh Tông năm Hưng Long thứ 21 lại phong thêm hai chữ Uy hiển.

Về sau triều Trần Hàn lâm viện Thị độc Vương Uy theo giá đi Tây chinh nước Chiêm Thành, đi qua dưới đền, có thơ rằng:

Tỳ hưu thập vạn triển uy linh
Thế lực vân trung tuyết ngoại thành
Giang hữu khu khu hà xứ thị
Phong thanh hạc lệ tẩu Tần binh.

Nghĩa là:

Mười vạn tỳ hưu tỏ oai linh
Thế lực trong mây, tuyết ngoài thành
Bên sông nơi nơi đâu là chốn
Tiếng gió lệ hạc đuổi Tần binh.

Lại có Hàn lâm thị độc Nguyễn Sĩ Cố theo giá đi Tây chinh Ai Lao, trở về có thơ rằng:

Quy ngư phù ấn quải yêu gian
Tiền sự hy cầu phó tướng quan
Bạc đao thư sinh vô vọng xứ
Chỉ lai từ hạ khất bình an.

Nghĩa là:

Ấn phù rùa cá đeo bên hông
Sự cũ theo quan tướng cầu mong
Thư sinh bỏ đao về vô vọng
Dưới đền tìm đến, an lành trông.

Các kỳ sinh hóa cùng các tiết khánh hạ, và chữ húy, sắc phục làm lễ phải cấm vâng khai như sau:

Ngày sinh thần 12 tháng Hai. Làm lễ đón thần từ đền ở cung ngoài ba sông về nơi tế hội đồng, trên bộ đón giá, đường thủy ba chiếc thuyền rồng, trở về đến trước cửa nơi tế. Làm lễ cỗ chay oản quả, dưới dùng lợn đen tuyền, xôi, rượu, ca hát, đánh cờ, đấu vật trong 10 ngày, làm lễ rồi dừng.

Ngày hóa thần mùng 10 tháng Sáu. Làm lễ cỗ chay, trà, oản quả, bánh trôi, xôi rượu, cơm thịt lợn, các đồ vàng mã.

Ngày khánh hạ mùng 10 tháng Tám. Làm lễ cỗ chay, xôi rượu, ca hát ba ngày thì ngừng. Thịt trâu hay thịt lợn đều được.

Ngày khánh hạ 15 tháng Tám. Làm lễ cỗ chay, xôi, rượu, ca hát ba ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ 15 tháng Ba. Làm lễ đón thần bằng hai thuyền rồng, tiền về theo đường thủy tới nơi tế hội đồng, ca hát, đấu vật, cỗ chay, gà, xôi, rượu, ca hát ba ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ mùng 10 tháng Giêng. Làm lễ cỗ chay, lợn, xôi, rượu, ca hát ba ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ 12 tháng Năm. Làm lễ ở cung miếu, chèo thuyền rồng đón giá, cỗ chay, dưới móng lợn, xôi, rượu, bánh trôi, ca hát mười ngày, làm lễ tạ rồi ngừng.

Ngày khánh hạ mùng 10 tháng Mười một. Làm lễ xôi rượu, thịt lợn, ca hát một ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ 25 tháng Mười. Làm lễ thịt lợn, xôi, rượu, ca ba ngày thì ngừng.

Chữ húy  Trưởng, Lệnh, Thổ, Trung, Thành đề cấm tránh cùng âm. Cùng với tên cha mẹ hai chữ Bột, Hương, cùng với các áo màu vàng, tím đều cấm.

Hai kỳ xuân thu ở nơi miếu hóa. Các ngày 15 tháng Ba, 15 tháng Tám làm lễ tam sinh. Các nơi phụ tế đều làm lễ. Ca hát ba ngày thì ngừng.

Năm đầu niên hiệu Hồng Phúc, ngày tốt tháng Giêng, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính vâng soạn.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ ba, ngày mùng 1 tháng Năm, Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, bề tôi là Nguyễn Hiền tuân th

No comments:

Post a Comment