Năm 2015 một chiếc chuông đồng cổ lớn đã phát hiện ở làng Nhân Vũ (Nguyễn Trãi, Ân Thi, Hưng Yên). Chuông cao hơn 1m, đường kính miệng 60cm. Trọng lượng chuông khoảng 200kg. Phần thân chuông chia là 4 mặt. 4 mặt phía trên có hình Phật ngồi tòa sen và minh văn. Phía dưới là ô vuông chạm hình các muông thú (rồng, voi, trâu, rùa) ẩn trong mây sóng nước. Phần chỉ dọc của 4 mặt chia thành đường, có khắc chữ. Quai chuông hình rồng hai đầu (Bồ lao). Đỉnh quai có hình búp sen (đặc điểm tương tự thấy trên các chuông cổ thời Trần khác). Miệng chuông loe có chạm khắc hình cánh sen.
Đây là một chiếc chuông lớn có 4 mặt đúc đầy chữ và 4 vành, mỗi vành gồm 3 cột cũng có chữ khắc. Tuy nhiên phần nửa trên của chuông đã bị phong hóa bào mòn nên mất gần hết chữ. Chỉ còn đọc được nửa dưới mỗi mặt. Tổng số những chữ còn có thể đọc được là trên 600 chữ.
Bài minh văn phần thân chuông bắt đầu bằng mô tả con đường làng nhỏ qua cầu có ngôi chùa… Chuông đồng là sắc giới nghiêm trang, mở âm thanh tịnh. Chuông là khí đánh vang, Phật thường hiện. Phật là vô tướng, đâu cần phải nhìn thấy, chạm vào mới cảm nhận được sự hiển linh của Phật. Do đó người Việt chốn thiền (sư?) đã mở đàn việt quyên góp các thí chủ để đúc chuông. Năm Nhâm Dần tháng đầu đông (tháng 10) ngày mùng 1 đúc chuông lớn. Quang cảnh chùa ở nơi hương thôn từ cổ xưa, có nhiều người tín Phật, khung cảnh yên tĩnh, là nơi cúng tế các việc sinh tử. Có tiếng ca hát, mênh mông nguy nga. Có đài cửa phẩm liên hoa rậm rạp. Phảng phất hình sông nước, gò đồi. Chùa mới như một Kỳ viên ngàn thôn. Có chuông là pháp khí. Dựng lầu trống, lầu chuông. Người thợ nhân cũng là người làng xóm gần đó mà làm bài minh ghi lại việc nhân nghĩa.
Bài minh rằng:
… chuông là sự hiển hiện của Phật, Phật lấy chuông làm thịnh
… âm kình phát ra quần long sinh gió
… treo ở lầu cao, tiếng kêu vang vang.
Phần chữ nhỏ ở cuối bài ghi lại đàn việt quyên góp và những người đã đóng góp đất đai, tiền để xây chùa.
Người viết bài minh là Lê Tịnh, hiệu Ba Lãng.
Phần chữ trên viền chỉ dọc chuông được khắc sau khi đúc chuông, nội dung ghi những người đã tiến thí (đóng góp) ruộng, tiền để xây dựng các công trình trong và quanh chùa. Các công trình này là để bổ sung tượng, đồ dùng cho tòa Tam bảo trong chùa, để làm con đường và cây cầu nổi đi vào chùa. Thời điểm khắc chữ ở phần viền chỉ là vào tháng 11 năm Nhâm Dần (tức là sau khi đúc chuông 1 tháng).
Đặc biệt trên phần chữ ở viền chuông có nói đến các địa danh hành chính của người tiến thí cho chùa là ở lộ Khoái Châu xã Đãn Chàng và xã Dược thuộc động Yên Viên. Xã Đãn Chàng có thể nay là xã Đan Chàng, một xã cùng tổng Nhân Vũ với nơi phát hiện ra chiếc chuông thời Nguyễn. Còn xã Dược thuộc động Yên Viên gần đó có thể là nằm trong tổng Yên Canh thời Nguyễn với các khu vực cận kề thuộc xã Mão Cầu.
Đơn vị hành chính “lộ” ở nước ta bắt đầu từ thời Lý, phổ biến ở thời Trần và chấm dứt vào đầu thời Lê. Sau khi thống nhất đất nước, Lý Thái Tổ đã chia Đại Việt thành 24 lộ, thay thế cho 10 đạo thời Đinh – Lê. Nhà Trần tiếp tục duy trì đơn vị hành chính lộ, nhưng giảm số lượng xuống còn 12. Khi nhà Minh xâm chiếm nước ta đã áp dụng chế độ phân giới hành chính theo phủ, không còn đơn vị “lộ” nữa. Đến vua Lê Thái Tổ đã chia cả nước ban đầu thành các đạo.
Với địa danh “lộ Khoái Châu” được khắc trên chuông thì có thể xác định chắc chắn rằng đây là chiếc chuông thuộc về thời nhà Trần. Chuông được đúc vào năm Nhâm Dần, thì trong giai đoạn này có các năm sau:
Năm 1302 thời Trần Anh Tông
Năm 1362 thời Trần Dụ Tông
Rất khó xác quyết chiếc chuông này ở vào thời Trần Anh Tông hay Trần Dụ Tông. Nhưng với mối liên hệ của vùng đất này với Huyền Trân công chúa (em vua Trần Anh Tông) và loạn lạc thời kỳ cuối triều Trần Dụ Tông thì có thể nhận định rằng chuông được đúc vào năm Nhâm Dần 1302.
Nếu so sánh chiếc chuông Nhân Vũ với các chuông thời Trần đã biết là chuông chùa Bình Lâm (Hà Giang), chuông Vân Bản (Hải Phòng) và chuông chùa Rối (Hà Tĩnh) thì chuông Nhân Vũ có nhiều điểm nổi bật hơn. Đó là chuông còn nguyên vẹn, có chạm khắc không chỉ hoa văn mà còn hình Phật tọa thiền và các muông thú trong mây nước độc đáo. Về minh văn thì số chữ đúc và khắc trên chuông Nhân Vũ vượt xa số chữ tương ứng trên các chuông kia. Do đó chiếc chuông này xứng đáng được công nhận là Bảo vật quốc gia, như đã công nhận đối với những chiếc chuông thời Trần cùng thời.
Chuông thời Trần phát hiện ở Ân Thi, Hưng Yên.Quai chuông hình bồ lao có núm búp sen.Phật trên tòa sen.Minh viết: Chung chi Phật hiển, Phật dĩ chung long…Người viết bài minh: Ba Lãng Lê? Tịnh? thư.Hình trâu trên mây nướcDòng chữ: Tại Khoái Châu lộ…Voi trên mây nước.
Nguyên phi Ỷ Lan được biết là rất coi trọng đạo Phật, cho xây nhiều chùa chiền mà các di tích khảo cổ và tín ngưỡng vẫn còn để lại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, thực sự là dòng phái Phật giáo nào đã giúp cho Nguyên phi Ỷ Lan trở thành một Thần phi, một Hoàng hậu nhiếp chính rồi Hoàng Thái hậu? Lần theo sự tích của Nguyên phi Ỷ Lan kết hợp với các di tích còn lại có thể cung cấp thêm những nhìn nhận mới về Phật giáo và văn hóa đầu thời Lý.
Cầu duyên trên quê hương Thổ Lỗi – Sủi
Trong thần tích trong bản khai thần tích thần sắc của làng Thục Cầu (Đồng Xá, Văn Lâm, Hưng Yên) thì tên của Nguyên phi Ỷ Lan được chép như sau:
Thái hậu quê ở làng Cổ Lỗi, huyện Siêu Loại, xã Dương Xá. Cha là ông họ Lê tên Quyết. Mẹ là Võ Thị Tĩnh Nương. Gia đình lấy nghề trồng dâu làm nghiệp. Lại nằm mộng điềm lạ nuốt sao Thái âm mà sinh được một người con gái, tức là Thái hậu vậy. Đặt tên là Yến, còn gọi là Cám (Cảm), còn có hiệu là Khiết nương.
Tên vua Lý Thánh Tông phong cho Nguyên phi là Ỷ Lan thực ra là tên chữ, vận dụng phép phiên thiết từ tên thời con gái của bà vì Ỷ Lan đọc thiết âm là Án = Yến. Tương tự, tên làng Thổ Lỗi vốn cũng là tên phiên thiết của âm Nôm là Sủi vì âm Th- xưa đọc như S-. Dẫn chứng khác là làng này có lúc được ghi là Thượng Lỗi, có cùng âm phiên thiết như Thổ Lỗi.
Điểm bổ sung là sau Lý Thánh Tông cho đổi tên Thổ Lỗi thành Siêu Loại, thực ra vẫn là giữ âm phiên thiết của chữ Sủi. Tức là:
Thổ Lỗi hay Thượng Lỗi thiết Thổi – Sủi
Siêu Loại thiết Soại – Sủi.
Thần tích Thục Cầu cho biết khi Khiết nương bị em lừa lấy hết cá thì người đã giúp Khiết nương là vị lão tăng chùa Linh Nhân có tên là Đại Điên. Tức là trong nếu so với truyện cổ tích Tấm Cám thì ông Bụt hiện lên chính là sư Đại Điên.
Tiếp đó khi cá bống bị giết cũng chính vị tăng này (Đại Điên) đã bảo Khiết nương thu xương cá chôn ở góc giường và sau trăm ngày được một đôi hài đẹp. Khiết nương mang đôi hài ra phơi trước sân thì bị một con “chim thần” tha mất một chiếc hài đem thả vào cung nhà vua. Nhà vua cho đó là điềm sinh Hoàng tử kế vị và ngay sau đó đã về chùa Linh Nhân ở huyện Siêu Loại lập đàn cầu nguyện, vì thế mà gặp được Khiết nương đang hái dâu, đưa về lập làm Thần phi.
Có thể thấy rõ ràng rằng đây là một sự sắp đặt của vị tăng Đại Điên, từ việc làm ra đôi hài, mang hài bỏ vào cung đình rồi đánh tiếng để cho nhà vua về cầu nguyện tại chính chùa của mình (chùa Linh Nhân). Ngôi chùa Linh Nhân này nay là chùa Linh Nhân Tư Phúc ở Dương Xá, Gia Lâm. Linh Nhân cũng là tên thờ của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Còn có chùa Phú Thị (chùa Sủi) có lễ hội Bông Sòng, trả lại trong sạch cho nội thị Nguyễn Bông, người đã “tham vấn” sư Đại Điên ở chùa Linh Nhân. Có thể chùa Sủi là quê hương của Nguyễn Bông (Nguyễn Bông có thể là người cùng quê với Nguyên phi Ỷ Lan).
Quê hương của Nguyên phi Ỷ Lan ở Dương Xá thuộc tổng Dương Quan, phủ Thuận Thành, Bắc Ninh xưa. Xã Dương Xá có mấy thôn: Đanh, Đá, Trung. Những cái tên Đanh, Đá gợi nhắc tới Bà Đanh, Bà Đá trong tục thờ Tứ pháp.
Đặc biệt là trong cùng tổng Dương Quang, ở phía bên kia sông Thiên Đức đối diện với Dương Xá là làng Đề Trụ. Làng này tới nay còn đền thờ Thiên Đế Đế Thích. Đây là một liên hệ cho thấy khả năng vị tăng Đại Điên ở chùa Linh Nhân là một vị sư tu theo đạo thờ Thiên Đế, bởi Đế Thích mới là vị thần có thể cầu duyên và cầu tự, chứ không phải Phật Thích Ca.
Sự tích Ông hàng Dầu đã thấy mây lành che trên đầu Khiết nương và khuyên nàng đi xem vua ở Dương Xá chắc hẳn cũng có ý nghĩa. Dầu là thứ để thắp sáng (Quang) nên rất có thể tương ứng với cái tên Dương Quang của tổng này. Cái tên Dương Quang cũng nhắc tới liên hệ với Thạch Quang Phật trong tín ngưỡng Tứ pháp.
Cầu tự nơi kinh thành Thăng Long
Lý Thánh Tông rước Khiết nương về Thăng Long, cho ở cung Ỷ Lan, phong là Thần phi. Dấu vết của cung Ỷ Lan nay là chùa Kim Cổ, vốn là Đồng Thiên quán, tương truyền là nơi Nguyên phi Ỷ Lan thờ “đạo Giáo”. Tuy nhiên, Nguyên phi Ỷ Lan là người tôn sùng “đạo Phật”, sao lại đi lập Đạo quán ở ngay nơi ở của mình? Cái tên “Đồng Thiên” của quán này cho thấy khả năng nơi đây thờ Thiên Đế của “đạo Phật”, chứ không phải thờ thần của đạo Giáo.
Nguyên phi Ỷ Lan vốn được sự giúp đỡ của “ông Bụt” Đại Điên mà trở thành cung phi, sau đó lại cũng nhờ ông Bụt này mà sinh được Hoàng tử. Nên quán nơi cung điện của bà phải là thờ “Bụt” mới đúng.
Chuyện Nguyên phi Ỷ Lan cầu tự được con trai liên quan trực tiếp đến tăng Đại Điên. Thần tích Thục Cầu kể rằng sau khi vào cung, Thần phi Ỷ Lan (thần tích khác chép là tiểu nhân là Nguyễn Bông) vẫn thường về chùa Linh Nhân cúng dường. Tăng Đại Điên đã “tư vấn” cho Nguyễn Bông nhìn trộm Thần phi để đầu thai làm Thái tử. Dấu vết nơi Nguyễn Bông đầu thai là chùa Thánh Chúa ở Dịch Vọng, Hà Nội.
Điều lạ là tăng Đại Điên lúc này không còn ở huyện Siêu Loại nữa mà đã về vùng Dịch Vọng ở tại chùa Duệ Tú. Thần tích Duệ Tú cho biết ông là người quê ở tại vùng này, có tên là Lê Toàn Nghĩa. Khi tu hành đã trở thành một vị lương y và thiền sư có nhiều công lao. Rõ ràng rằng tăng Đại Điên ở Thổ Lỗi đã “chuyển chùa” cùng với Thần phi về kinh đô. Và vị Đại Điên đã có công lớn trong việc giúp Thần phi Ỷ Lan “sinh con theo ý muốn”, sinh được Thái tử Càn Đức, nhờ vậy Ỷ Lan trở thành Nguyên phi nhiếp chính thời Lý Thánh Tông. Chú ý rằng sư Đại Điên cũng mang họ Lê như Khiết nương Lê Thị Yến.
Một lần nữa có thể thấy là tăng Đại Điên không phải dùng “Phật pháp” thiền môn mà là một Pháp sư có khả năng giúp đầu thai và chữa bệnh. Câu chuyện đầu thai của Nguyễn Bông có điểm giống với cách Khâu Đà La bước qua người Man Nương mà sinh ra Tứ pháp trong sự tích chùa Dâu thời trước.
Cũng chính nơi chùa Duệ Tú này nay còn mộ của tăng Đại Điên, bởi trong chuyện Thánh Láng Từ Đạo Hạnh đã báo thù cha và giết chết Đại Điên ở nơi đây. Đại Điên đầu thai thành đứa bé là Giác Hoàng, biết rất nhiều chuyện của cung đình, nên đã được vua đưa về kinh sư cho ở trong chùa Báo Thiên để đầu thai lại vào hoàng thất. Sau đó Giác Hoàng bị Từ Đạo Hạnh ngăn cản mà chết. Tại chùa Duệ Tú Đại Điên được tôn là Thánh tổ Lê Nghĩa hiệu Giác Hoàng Đại Điên Thiền sư.
Câu chuyện Đại Điên đầu thai thành Giác Hoàng cũng như việc tranh đấu với Từ Đạo Hạnh càng chứng tỏ lối tu của Đại Điên là lối tu theo Thiên Đế. Ngay việc Giác Hoàng được đưa về chùa Báo Thiên cũng cho biết điều này, bởi chùa Báo Thiên vốn là ngôi chùa thờ Thiên Đế, thường được dùng để cầu mưa, như việc rước Pháp Vân từ chùa Dâu về đây cầu mưa.
Theo Việt điện u linh, khi Từ Đạo Hạnh chuẩn bị viên tịch có nói với các đệ tử: Ta chưa hết nhân duyên với đời, lại phải thác sinh làm vua ở nhân gian, khi nào chết lại về làm chủ “Tam thập tam thiên”. Vị thần chủ của “Tam thập tam thiên”, cõi trời 33, là Vua trời Đế Thích (Thiên Đế). Từ Đạo Hạnh như vậy chính là hóa thân của Đế Thích.
Hoằng quang đạo pháp ở các chùa
Nguyên phi Ỷ Lan khi nắm được quyền triều chính đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa mà dấu vết của chúng còn lại cho tới ngày nay. Điều đặc biệt là khi xem kỹ những ngôi chùa này, ta lại thấy có nhiều dấu vết và liên hệ đáng ngạc nhiên đến tục thờ Vua trời Đế Thích và Tứ pháp.
Điển hình ở tại quê hương Văn Lâm của bà có chùa Hương Lãng là chùa cổ từ thời Lý với những bậc đá hình con sấu và chim phượng cùng với bệ sư tử đá lớn nhất thời Lý còn thấy được. Trong khuôn viên chùa còn xây am thờ Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Rất ngạc nhiên là chùa Hương Lãng còn có tên là Pháp Lôi tự, tức là chùa thờ Pháp Lôi trong hệ thống Tứ pháp. Chùa Hương Lãng được gọi là chùa Ông Sấm, nhưng ông Sấm ở đây không phải chỉ bệ sư tư đá còn trong chùa, bởi bệ đá hình như vậy còn gặp ở những nơi khác và không đâu gọi sư tử là ông Sấm cả. Ông Sấm thực sự là tượng Pháp Lôi, có lẽ đã từng có đặt trên bệ sư tử này vào thời Lý.
Ngôi chùa lớn nổi tiếng khác là chùa Dạm ở Quế Võ, Bắc Ninh. Chùa Dạm còn gọi là chùa Bà Tấm, có đền thờ Hoàng thái hậu Ỷ Lan. Các làng xung quanh đó như Môn Tự, Tự Thôn, Sơn Nam đều thờ bà. Tương truyền nơi đây là nơi Hoàng Thái hậu đã về tu hành vào cuối đời. Chùa Dạm có nền khảo cổ 3 cấp thời Lý và đặc biệt là còn một chiếc cột đá chạm rồng lớn còn nguyên vẹn. Nhiều nhà nghiên cứu đã từng cho rằng cột đá rồng chùa Dạm là ngẫu tượng của Linga. Nói cách khác, nơi đây là nơi thờ “đạo Phật” theo hướng tương tự như đạo Bà la môn ở miền Trung.
Chùa Dạm sau này từng được sư Không Lộ trụ trì theo sách Lịch triều hiến chương loại chí. Không Lộ cũng là một vị pháp sư cùng với Từ Đạo Hạnh và Giác Hải kết nghĩa, đi học đạo ở phương Tây, nhưng chưa đến đất Phật mà dừng ở nước Kim Xỉ. Đạo học của Tam vị Thánh Tổ triều Lý này như vậy thực ra không phải đạo Phật chính tông, mà là Ấn Độ giáo, tôn thờ Tam vị nhất thể trong hình ngẫu tượng Linga như ở miền Trung Việt Nam.
Các hiện vật khảo cổ các chùa thời Lý cho thấy nghệ thuật tạo hình thời kỳ này mang đậm nét của “văn hóa Chăm” với những vũ công được thể hiện theo phong phồn thực. Hay như tượng Nhạc công thiên thần đầu người minh chim tìm thấy ở chùa Phật Tích. Rồi những bức tượng, phù điêu bằng đá sa phiến thạch được sử dụng làm tượng thờ và trang trí đền chùa, rất đặc trưng. Thực ra đây không phải là “văn hóa Chăm”, mà là văn hóa của đạo Bà la môn (Ấn Độ giáo) đã trở nên thịnh hành ngay từ đầu thời Lý.
Ngay tại đền Ghênh ở Như Quỳnh (Văn Lâm, Hưng Yên) đã tìm thấy hiện vật chính thời Lý là một “Kính Thiên đài” với bệ chạm sư tử ở dưới. Đài Kính Thiên thì rõ ràng là thờ Thiên, tức Vua trời Đế Thích.
Tại chùa Phật Tích, dấu vết truyền đạo Bà la môn xưa là những phiến đá lớn xếp hình trên đỉnh núi Tiên Du, gọi là Bàn cờ đá, là “Phật tích” của vị tăng Bà la môn là Khâu Đà La (theo bia ở chùa tổ Mãn Xá). Núi Tiên Du là nơi Khâu Đà La tu hành cùng với Man Nương mà sinh Tứ pháp. Hiện nay tại đây có chùa Linh Quang ở thôn Vĩnh Phú bên sườn núi phía Nam sau chùa Phật Tích, là nơi Khâu Đà La tu hành, nay còn tượng thờ.
Nhưng kỳ lạ hơn nữa là ngay cạnh chùa Linh Quang chính là đền Bà Tấm thờ Nguyên phi Ỷ Lan. Nhân dân ở đây tương truyền đây là mộ của bà. Trong nền chùa và đền này đã phát hiện rất nhiều hiện vật thời Lý, gồm cả những viên gạch có chữ “Lý gia đệ Tam đế Chương Thánh Gia Khánh lập tạo”, “Lý gia đệ tứ Long Thụy Thái Bình lập tạo”. Tại sao Bà Tấm lại chọn nơi xuất xứ của vị Bà la môn Khâu Đà La làm nơi xây chùa đền và gửi hồn xác của mình?
Khâu Đà La là hiện thân của Vua trời Đế Thích cùng Tứ đại Thiên Vương là Phong Điều Vũ Thuận hay Vân Vũ Lôi Điện trong tín ngưỡng Tứ pháp của vùng đất Siêu Loại – Thuận Thành xưa. Nguyên phi Ỷ Lan cũng như nhà Lý bát đế có quê hương gốc ở vùng đất này nên việc thờ Thiên Đế trở thành tôn giáo chính của hoàng gia nhà Lý là việc dễ hiểu.
Thiền uyển tập anh chép câu hỏi của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan đối với Quốc sư Thông Biện: Ngày 15 tháng 2, mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1016) Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu có lần đến trai tăng ở chùa Sư, cùng với các bậc kỳ túc thăm hỏi ý nghĩa Phật và Tổ, có gì hơn thua? Phật trú phương nào? Tổ ở nơi đâu? Đến đất nước này từ lúc nào? Trao truyền đạo đây, ai trước ai sau. Còn niệm tên Phật, đạt tâm Tổ, tuần tự truyền nhau, thì chưa biết cái nào là tôn chỉ?.
Phật nào? Tổ nào? Câu hỏi nghi vấn của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan cho thấy sự nghi ngờ của bà đối với “đạo Phật” của các dòng thiền lúc này. “Tổ đến đất nước này” thì rõ ràng là chỉ Khâu Đà La.
Như vậy, vào đầu thời Lý với vai trò của Pháp sư Đại Điên chuyên về cầu duyên, cầu tự, đầu thai, giúp Nguyên phi Ỷ Lan ở vùng Siêu Loại, nối tiếp là 3 vị Thánh Tổ đi học đạo ở Miến Điện về cũng đầu thai (Từ Đạo Hạnh), rồi hàng long diệt hổ (Đại pháp sư Không Lộ và Giác Hải) có thể thấy Ấn Độ giáo lúc này đã trở thành một chính giáo của triều đình, có ảnh hưởng sâu sắc đến nền chính trị của nhà Lý cũng như văn hóa nghệ thuật đương thời. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên” thời Lý có lẽ phải là Lão giáo – Phật giáo – Ấn Độ giáo mới đúng, bởi Nho học không phải là tôn giáo. Chính nét Ấn Độ giáo này mới làm nên một văn hóa tín ngưỡng tôn giáo riêng của nhà Lý ở phương Nam, khác biệt với những dòng thiền của Trung Hoa khi đó.
Bài tham luận trình bày tại buổi sinh hoạt tháng 6/2025 của CLB Di sản và Văn hóa Á Đông tại chùa Sủi – Phú Thị.
Một vài hình ảnh minh họa
Thần tích của thôn Tự Thôn ở Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh ghi trong sách Hà Bắc nghìn năm văn hiến.
Kiệu thờ Ông hàng Dầu tại đền Bà Tấm, Phú Thị, Gia Lâm.
Ban thờ Khâu Đà La ở chùa Linh Quang, cạnh đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan ở thôn Vĩnh Phúc, Phật Tích.
Tượng Thiên Đế Đế Thích ở đền làng Đề Trụ, xã Dương Quang, Gia Lâm, Hà Nội.
Tượng Giác Hoàng Đại Điên ở chùa Duệ Tú.
Tên chùa Hương Lãng, nơi có các bậc sấu đá và bệ sư tử thời Lý: Pháp Lôi tự.
Kính? Thiên đài – di vật thời Lý ở đền Ghênh, Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên.
Biết mà biết sai về quá khứ là cái sai hết cỡ... Lộn lạo giữa ta và giặc thì còn cái gì nữa...
Lão Tử - Lỹ Nhĩ Đam người quê Thúc Lực, Kim Chân ở Kim Bảng, Hà Nam, học đạo ở động Thiên Tôn, Hoa Lư, rồi làm quan thủ thư nhà Chu, thực ấp ở Thổ Hà, Việt Yên, Bắc Giang.
Nhân trận động đất làm đổ thành Lạc Dương - Cổ Loa, Lão Tử đăng đàn trừ yêu diệt quỷ, răn dạy vua Chu tuân theo đạo trời, hiển danh ở núi Võ Đang, nay là núi Sái ở Đông Anh.
Cuối đời Lão Tử cưỡi trâu xanh đi về phía Tây, để lại cuốn Đạo Đức kinh như cái móng rùa thần cho muôn thế hệ sau.
Tưởng nhớ đến bậc thánh nhân khai đạo, hàng năm dân Thụy Lôi tổ chức rước vua đến làm lễ thánh ở núi Võ Đang.
Thời Đường, nhà Đường coi Lão Tử là tổ họ Lý nên tôn ngài là Huyền Nguyên Thái Thượng Lão Quân. Các đạo quán thờ là Huyền Thiên Thượng Đế.
Tới thời Lý lại rước chân nhang Huyền Thiên từ núi Võ Đang về Thăng Long, thờ ở đền Trấn Vũ bên hồ Tây trên đường Thụy Khuê (lấy từ tên Thụy Lôi ở núi Sái).
Câu đối ở đình Thổ Hà khẳng định chắn chắn rằng Lão Tử và nhà Chu duy nhất ở nơi nước Nam Việt này:
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai Đạo Giáo Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác Thần Tiên.
Ngũ môn quan đền Sái trên núi Võ Đang, Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội.
Ba ông Phúc Lộc Thọ trong lễ hội làng Thổ Hà, Việt Yên, Bắc Giang.
Nhóm tác giả Nguyễn Đức Tố Lưu, Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Huân đã thực sự làm người đọc bất ngờ bởi những phát hiệnđộc đáo và những kiến giải táo bạo, công trình đã mở ra nhiều hiểu biết mới trong nghiên cứu tín ngưỡng và lịch sử cổ đại Việt Nam, ví dụ như:
Chứng minh Liễu Nghị là Tản Viên Sơn Thánh (Kinh Dương Vương), đồng thời liên hệ với Đại Vũ của nhà Hạ, tạo nên một hệ thống thần thoại thống nhất giữa Việt Nam và Trung Hoa.
Giải mã danh tính các vị thần Thủy phủ như Long Đỗ,
Bát Hải Long Vương, Quý Minh… những danh tính vốn bị lãng quên vì không
ai có thể giải mã, hoặc bị hiểu sai trong nhiều nghiên cứu trước đây.
Việc giải mã này không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu Đạo
Mẫu mà cả tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói chung.
Giải thích và xác định một số địa danh then chốt như: “Động
Đình”, “Bãi Trường Sa”, “cánh đồng Tương”…các kiến giải này đã thực sự
giúp giới nghiên cứu cổ sử và văn hóa có cơ sở để xác định các không
gian văn hóa khi nghiên cứu tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Chẳng hạn việc
xác định Động Đình là vùng biển Đông, chứ không phải hồ nước ở Hồ Nam
(Trung Quốc) là một cách khẳng định lại không gian văn hóa – chính trị
của hệ Thủy phủ của dân tộc Việt. Đánh đổ các khuôn mẫu truyền thống,
các biểu tượng và định kiến (không nhiều nhà nghiên cứu vượt qua) trước
đây về mối liên hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa.
Đưa ra các biểu tượng văn hóa-sinh thái giúp các
nhà nghiên cứu về sau có căn cứ để nhận diện, giải mã các biểu tượng
liên quan đến thủy thần như: cây hoa gạo, hoa đào, biểu tượng rắn, rồng,
bọc trứng,…. Những biểu tượng này không nhiều nhà nghiên cứu biết được
bởi bị phủ lên bởi diễn trình lịch sử quá xa xưa, cũng như bị rời rạc và
mờ nhạt bởi thiếu các cơ sở liên kết, xâu chuỗi về thần tích và biểu
tượng. Đây là một đóng góp quan trọng về mặt biểu tượng học, nó sẽ giúp
ích cho công tác điền dã, xử lý tư liệu cho các nhà nghiên cứu về sau.
Những phát hiện này không chỉ đảo lộn nhận thức cũ mà còn đặt nền móng cho một cách tiếp cận mới,
khẳng định tính độc lập và bản sắc của văn hóa Việt, phá vỡ tư duy “dĩ
Hoa vi Trung” bấy lâu nay khi nghiên cứu về Đạo giáo và thần phổ Việt
Nam.
2. CÔNG TÁC ĐIỀN DÃ CÔNG PHU & TƯ LIỆU QUÝ HIẾM
Để có được nguồn tư liệu tham khảo đồ sộ như đa công bố trong công trình này, có lẽ nhóm tác giả đã phải dành nhiều năm lăn lộn thực địa mới
có được. Những tư liệu này không chỉ phản ánh việc chú trọng công tác
điền dã thực địa, lấy tư liệu thực địa làm cơ sở nghiên cứu và luận
giải. Tính dân tộc học cũng đậm nét khi nhóm tác giả thu thập rất nhiều
chuyện kể, truyền thuyết dân gian, ghi chép các dư liệu văn tự tại các
nơi đến. Việc thu thập, biên dịch những tư liệu này trở nên có giá
trị vô giá không chỉ bởi độ hiếm, độ quý về mặt tư liệu mà còn thể hiện ở
chỗ nội dung đắc giá, phục vụ đúng các mục tiêu và vấn đề nghiên cứu.
Hầu hết những tài liệu đắc này là những tài liệu mà các học giả trước
đây chưa từng tiếp cận được, hoặc tiếp cận lẻ tẻ, chưa tập hợp thành hệ
thống:
Thần tích, ngọc phả, khoa nghi, bi ký từ các chùa,
đền miếu cổ, thư viện,… giúp khôi phục lại hệ thống thần điện Thủy phủ
một cách hệ thống. Những nguồn tư liệu mà nhóm tác giả dày công biên
dịch, khảo cứu đã làm cho cuốn sách chứa đựng thêm nhiều giá trị mà các
công trình nghiên cứu đi trước không làm được. Những Ngọc Phả Lạc
Long Quân, Thần tích về các vị thần Lạc Thị, thần tích xã Liễu Châu, Phả
lục năm vị Đại vương Thủy thần triều Hùng, Ngọc Phả chép về một vị thủy
thần xuất thế triều Hùng, … cung cấp thêm các cứ liệu về cổ sử và phả hệ dòng Lạc Thị.
Cùng các Thần tích làng Tiên Cát, thần tích làng Nghi Khúc, Ngọc phả xã Xối Đông, ngọc phả làng Đa Chất…cung cấp thêm hành trạng của hệ thủy thần Việt Nam ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Đặc biệt thông tín từ một số tư liệu văn tế, bi ký ở hải ngoại như: bia về Đạt Lặc Giáp, bia về Bố Lạc Đà, bia về Mạc Nhất Đại vương
đã giúp cho người đọc hình dung được sự phân bố, diện mạo của dân tộc
Lạc Việt xưa. Nó giúp cho người đọc nhận thức được vùng văn hóa Việt và
tính liên quốc gia của vấn đề nghiên cứu về Lạc Việt.
Câu đối, văn bia, câu chuyện truyền thuyết dân gian ở những làng xã, chùa miếu, đền ít được biết đến, như đền Đồng Bằng (Thái Bình), đền Hội (Nghệ An), đền Á Lữ (Thái Bình), đền Nhân Phẩm (Ninh Bình)…củng cố thêm cho các luận cứ để nhóm tác giả đưa ra các nhận định và kiến giải mới.
Đối chiếu với Đạo giáo Trung Hoa nhưng không sao chép máy móc, mà luôn đặt trong bối cảnh bản địa, giúp làm rõ sự giao thoa và khác biệt.
Hệ thống tư liệu và dữ liệu mà nhóm tác giả có được, chứng minh rằng một công trình không ngồi trong máy lạnh mà rất dày công, nghiêm túc, kết hợp được các nguồn sử liệu, dữ diệu điền dã di tích, dân tộc học, phân tích văn bản học,… xứng đáng là tài liệu tham khảo quý, hiếm và rất pro cho các nhà nghiên cứu sau này.
3. ĐÓNG GÓP HỌC THUẬT CÓ GIÁ TRỊ: TINH THẦN “DĨ VIỆT VI TRUNG”
Cuốn sách không chỉ là một nghiên cứu chuyên sâu, mà còn là một tuyên ngôn học thuật lấy dân tộc Việt làm trung tâm, phá bỏ tư duy “dĩ Hoa vi Trung” (lấy Trung Hoa làm trung tâm) vốn thống trị giới nghiên cứu trước đây. Nhóm tác giả đã:
Khẳng định sự độc lập của thần thoại, truyền thuyết, thần tích Việt:
cuốn sách chứng minh rằng các vị thần như Lạc Long Quân, Tản Viên, Thủy
Tinh không phải là “phiên bản sao” của thần thoại Trung Hoa, mà có nguồn gốc và logic riêng.
Phác thảo lại cấu trúc quốc gia gắn bó mật thiết với nước (từ sông ngòi, hồ đầm, ao, biển) thời cổ đại, cho thấy người Việt đã có một hệ thống chính trị – tín ngưỡng phức tạp từ rất sớm, không thua kém các nền văn minh khác.
Công trình này cũng đặt lại vấn đề về cách tiếp cận sử học theo lối truyền thống, vốn thường xem nhẹ yếu tố biển đảo và thủy tộc. Cách tiếp cận này mở ra hướng tiếp cận mới về lịch sử Lạc Việt, văn hóa nước, tín ngưỡng dân gian Việt.
4. TINH THẦN NGUỒN CỘI VÀ SỰ KHAI KHÓNG
Không chỉ dừng lại ở học thuật, nhóm tác giả còn tạo cảm hứng về ý thức dân tộc, giúp người Việt hiện đại tự hào về cội nguồn thay vì nghĩ mình ít nhiều gì cũng “là phiên bản của Trung Hoa”. Tôi nghĩ, công trình này đã:
Khẳng định tư duy độc lập, không chạy theo các số đông nghiên cứu phổ biến, mạnh dạng đưa ra nhiều kiến giải độc lập, mới và có thể gây tranh cãi.
Kết nối quá khứ với hiện tại, gợi mở về một “tư duy về văn hóa nước” trong bối cảnh học thuật quá chú trọng đến các vấn đề khác, đặc biệt nó cũng kết nối với các vấn đề về văn hóa biển.
Truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ tiếp tục khám phá lịch sử và văn hóa dân tộc với tinh thần phản biện và sáng tạo.
5. MỘT SỐ CÂU HỎI THẢO LUẬN
Câu hỏi về phương pháp luận và xử lý nguồn tư liệu
Câu hỏi 1: Nhóm tác giả đã sử sử dụng tiêu chí nào làm cơ sở phân loại và liên kếtsự
tương đồng khi so sánh hệ Thủy phủ Việt Nam với các vị thần Đạo giáo
Trung Hoa, hoặc diễn giải về tên gọi hoặc biểu tượng để xác định sự
nguồn gốc, sự tương đồng trong các câu chuyện về thủy thần?
Câu hỏi 2: Khi thần tích địa phương mâu thuẩn với hướng giải quyết vấn đề của nhóm tác giả thì nhóm cân nhắc yếu tố nào để ưu tiên diễn giải?
Ví dụ như trường hợp Quý Minh vừa là Sơn thần lẫn Thủy thần thì nhóm
tác giả có thể nói rõ hơn về cách xử lý như thế nào để thuyết phục người
đọc chấp nhận một diện mạo thủy thần của ngài?
Câu hỏi về diễn giải nhân vật và thần điện
Câu hỏi 3: Nhóm tác giả có thể cho biết thêm một số bằng chứng để làm rõ thêm
nhận định thần Long Đỗ là Thủy phủ Phù Tang Đại Đế? Liệu có khả năng
đây là hai vị thần riêng biệt, được hợp nhất do ảnh hưởng Đạo giáo thời
Lý-Trần hay không?
Câu hỏi về bối cảnh lịch sử và văn hóa
Câu hỏi 4: Với giả thuyết Thủy phủ Lạc thị
như một mô hình phản ánh cấu trúc quyền lực thời Hùng Vương có được bổ
trợ bằng những minh chứng khảo cổ học nào (ví dụ: khảo cổ học văn hóa
Đông Sơn) hay không? Làm sao giải thích sự vắng mặt của biểu tượng Rồng
trong nghệ thuật Đông Sơn nếu Rồng là biểu tượng trung tâm của Lạc Thị?
LỜI KẾT
Cuốn sách không chỉ là một công trình nghiên cứu xuất sắc, mà còn là một bước ngoặt trong tư duy viết sử ở Việt Nam. Nhóm tác giả xứng đáng được ghi nhận như những người tiên phong, dám đi ngược lại lối mòn, dám đặt câu hỏi lớn, và quan trọng nhất – dám khẳng định chân giá trị của văn hóa Việt. Hy vọng rằng, tương lai nhóm tác gải sẽ có nhiều nghiên cứu tiếp nối với nhiều phát hiện mới. Chúc mừng nhóm tác giả vì đã có thêm một tác phẩm để đời!
Có người hỏi tôi rằng: Dựa vào đâu để có thể viết nên cuốn sách Kinh triều bảo lục – Sử tích Long Quân và các vị Thủy thần Lạc Thị?
Tôi đáp rằng: Tiêu chí để nhận diện các vị thủy thần Việt là từ nhận thức về lịch sử…
Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả mở đầu đã ghi rõ: Xưa
tại Đại quốc Trung Hoa, đô đóng ở thành Thiên Thọ Bắc, lăng phần mộ tổ
trời táng ở núi Côn Lôn, cùng năm hồ, biển lớn, núi Nam hội chầu chính
đường. Ban đầu là từ cháu ba đời Viêm Đế dòng Thần Nông Thị, từ Hy Hoàng
tới đó, truyền ngôi quốc bảo chính thống Nam Bang, để lại cho con cháu
đời sau vậy.
Vua Minh Mạng cho lập miếu Lịch đại đế vương tại kinh thành Huế ở
gian chính giữa đã đặt bài vị thờ Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường
Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ, Thương Thang, Chu Văn, Chu Vũ.
Nước ta là Đại quốc Trung Hoa, mộ tổ Hùng Vương ở núi Côn Lôn. Đế
vương trải các đời Hữu Hùng Hiên Viên Hoàng Đế là Đế Minh mở muôn nước.
Đường Nghiêu Ngu Thuấn là Đế Nghi và Lộc Tục của 2 nhánh Hồng – Lạc.
Kinh Dương Vương là Đại Vũ trị thủy. Lạc Long Quân là Hạ Khải, mở đầu
Hoa Hạ.
Do đó, các vị cổ thần từ tín ngưỡng Trung Hoa như Đạo giáo hay shaman
giáo của người Dao sẽ tương đồng với các vị thần cổ của người Việt.
Cách diễn giải, hay cách nhận định về các nhân vật trong huyền sử Việt là được tính đến các khả năng sau:
– 1 nhân vật của thần tích và truyền thuyết là hình tượng của 1 triều
đại, 1 dòng tộc nên có thể gồm nhiều nhân vật lịch sử có quan hệ dòng
tộc với nhau ở các thời gian khác nhau.
– Thời gian của truyền thuyết không tính bằng năm tháng mà tính bằng
sự kiện. Chỉ có những sự kiện quan trọng mới được ghi chép truyền lại.
– Hình tượng văn hóa trong mỗi truyền thuyết được kể theo một góc
nhìn mang tín chất địa phương và dòng tộc. Cho nên 1 nhân vật có thể
được kể dưới những tên gọi khác nhau tùy theo góc nhìn, góc kể.
Trường hợp của Quý Minh Đại vương là ví dụ, có 2 nhân vật đều được kể
là Quý Minh. Một là Quý Minh vào đầu của thời kỳ Hùng Vương, anh em của
Tản Viên Sơn Thánh. Một là Quý Minh ở vào giai đoạn cuối của thời kỳ
Hùng Vương chống Thục.
Câu chuyện về Quý Minh được nhận diện theo Cổ Lôi ngọc phả,
ghi rằng 1 trong người chú là Lý Long Cảnh đã giúp Kinh Dương Vương
đánh giặc. Như vậy vẫn là 1 nhân vật Quý Minh nhưng có 2 cách kể. Kẻ
theo dòng lên núi thì đó là Sơn thần phụ trách Lãng Nhạc. Kể theo dòng
xuống biển thì đó là vị Thủy thần đi ngược từ cửa biển Thần Phù về Long
Đỗ.
Đối với thần Long Đỗ từ trước tới giờ không có sự tích khi thần còn
sống, chỉ có kể về sự hiển linh nên không thể nhận diện được nhân vật
này. Tuy nhiên, nhờ Cổ Lôi ngọc phả cung cấp thông tin
quan trọng rằng thần Long Đỗ là cha của bà Đỗ Quý Thị ở hồ Dâm Đàm, tức
là Mẫu Thoải hay Thần Long Nữ. Từ đó cho thấy thần Long Đỗ là Động Đình
Đế Quân trong Truyện họ Hồng Bàng. Đây là dòng Long tộc, ở phía Đông,
tức là vùng ven biển Đông.
Vị cổ thần của phương Đông là Đông Vương Công hay Đông Hoa Đế Quân
trong Đạo giáo. Và cũng từ thông tin của Đạo giáo cho biết Đông Vương
Công là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế. Phù Tang là phương Đông. Như
vậy vị vua Thủy phủ, xưng Đế, ở phương Đông thì rõ ràng là Động Đình Đế
Quân. Suy ra Long Đỗ (theo sử dân gian) = Động Đình Đế Quân (theo họ
Hồng Bàng) = Đông Vương Công (theo Tiên đạo thời Tần Hán) = Thủy phủ Phù
Tang Cam Lâm Đại đế (theo Đạo giáo Tam phủ). Đây là nhận định mới của
cuốn sách, nên không liên quan gì đến thời Lý Trần. Mà là tên gọi của
những dòng tín ngưỡng và dòng chép sử khác nhau.
Thời kỳ Lạc Thị bắt đầu từ 4.000 năm lịch sử, không tương ứng vời
thời Đông Sơn ở thiên niên kỷ 1 TCN, nên hiển nhiên không thể so sánh.
Trong văn hóa Đông Sơn cũng có hình tượng Giao long, chính là rồng Lạc.
Thời kỳ Lạc Long Quân khai phá miền biển được khẳng định bằng các di
tích khảo cổ cồn sò điệp gặp rất nhiều nhất là ở ven biển miền Trung.
Điển hình là di chỉ khảo cổ quốc giaThạch Lặc tại Hà Tĩnh, phát hiện cả
xương người cổ tuổi 3500- 4000 năm. Di chỉ này năm ngay cạnh đền Sắc
Thạch Lặc thờ Tam Lang Long Vương, là 3 vị thủy thần Lạc Thị, với hàng
chục sắc phong từ thời Lê.
Mô hình phát triển xã hội ở thời kỳ Lạc Thị không phải là mô hình nhà
nước quan chế đầy đủ, mà đó là thời kỳ Thị tộc phụ đạo, ngôi vị thiên
tử được cha truyền con nối nên Lạc Long Quân được gọi là Vua cha. Thiên
hạ chia thành các phương, mỗi phương được 1 vị quan chư hầu phụ trách
cai quản, nên thời này có Ngũ phương yết đế, hay Ngũ vị Tôn quan.
Thay cho lời cuối, xin dẫn lời của Hồ Tông Thốc trong Việt Nam thế chí: Độc
giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy nghiệm thì sẽ rõ ngọc đá, thấy được
tiếng vang hình bóng của lịch sử, tôi đâu tự dám cho ý mình là thoả
đáng.
Vị thủy thần hồ Dâm Đàm là
Linh Lang Đại vương, được thờ ở hàng trăm nơi trên khắp các vùng đồng bằng sông
Hồng. Sự tích về Linh Lang chung quy có 3 thời, đều về một vị hoàng tử đã có công
đánh giặc và gắn liền với địa danh ở hồ Tây. Một là Linh Lang thời Hùng Vương
đánh giặc Thục. Hai là Linh Lang thời Lý đánh giặc Vĩnh Trinh. Ba là Linh Lang
thời Trần đánh giặc Nguyên Mông.
Một số nơi như ở đình Tây
Hồ hay đền Thủ Lệ chép cả 3 sự tích của Linh Lang Đại vương ở 3 thời, gọi là Linh Lang thần hóa lục, và coi đó là 3
lần xuất thế của thần. Thần tích về Uy Linh Lang ở Yên Phụ hay Nhật Tân thì ghi
rõ: Vương vốn là chính phái họ Hồng Bàng,
là thứ tông của Bách Việt. Đại vương là giống giao long, là trưởng của Xích Giáp,
hiệu là Uy Linh Lang, cùng với 6 người được nhận phong ở đó là Bạch Giáp, Hoàng
Giáp, Hắc Giáp, Thanh Giáp, Chu Giáp, Tử Giáp.
7 vị thủy thần hồ Dâm Đàm
được thờ đầy đủ tại điện Nhật Chiêu, tức đình Nhật Tân ngày nay, là nơi bọc trứng
của bà Diệu Đế Lạc phi nở thành 7 con rồng mà bay lên trời trên bãi sông Hồng.
Cái tên Nhật Chiêu xuất phát từ sự tích này, do khi bọc trứng bị bỏ bên bãi
sông, đến đêm có ánh sáng chiếu rọi và nghe tiếng vang vào tới tận kinh thành.
Lễ hội đình Nhật Tân là một trong những lễ hội lớn nhất Thăng Long, với đoàn rước
giá kiệu cùng múa rồng kéo dài từ đình làng qua cung Nhật Chiêu rồi ra đến bờ
sông Hồng.
Linh Lang cùng với những
người em cùng bọc là thủy thần hồ Dâm Đàm còn được thờ ở một loạt các di tích
quanh hồ Tây như Nghi Tàm, Quảng Bá, Yên Phụ, Tây Hồ, Tứ Liên... Câu đối ở đình
Quảng Bá nhắc lại sự tích Linh Lang và 6 giáp Tây hồ.
Bách
noãn dựng nhất bào, dục tú chung anh long chủng hóa Đoài
hồ linh thất giáp, phong công tuấn đức phượng sơn tề.
Nghĩa là:
Một
bầu chứa trăm trứng, dưỡng đẹp đúc anh hóa chủng rồng Bảy
giáp thiêng Tây hồ, công dày đức hậu sánh non phượng.
Vậy Linh Lang Đại vương là
ai trong sử Việt?
Lĩnh
Nam chích quái, Truyện
Hồ Tinh kể: “Long Quân ra lệnh cho Lục
bộ thủy phủ dâng nước lên công phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy...”. Như
vậy, Linh Lang cùng 6 giáp Tây hồ chính là Long Quân cùng Lục bộ thủy phủ trong
truyện Hồ Tinh.
Sách Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ chép: Miếu Lạc Long nằm ở cách cửa Bắc của kinh thành chính hướng bên ngoài 1
dặm, thuộc vùng ven bờ hồ Trúc Bạch tại thôn Yên Ninh, huyện Vĩnh Thuận... Nay
miếu ở trên hồ Trúc Bạch chính là kinh đô xưa của Long Quân vậy. Kinh đô Rồng
của cha Lạc Long Quân nằm ở đất Thăng Long, bên bờ hồ Trúc Bạch, xưa là hồ Dâm
Đàm (hồ Tây). Đây chính là lý do vì sao hồ Tây là rốn rồng Long Đỗ của lưu vực
sông Hồng.
Ngôi miếu Lạc Long bên hồ
trước đây thời Pháp mở đường đã chuyển về đầu dốc Hàng Than. Nay ngôi đền này gọi
là đền Đức Vua. Trên cổng đền có chữ đề “Bát
Hải vọng từ”. Đức Vua cha Bát Hải của Thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ của
người Việt là cha rồng Lạc Long Quân.
Cũng tại phía Bắc hồ Trúc
Bạch có đền An Trì, vốn là đền thờ Uy Linh Lang của phường Yên Phụ, là bằng chứng
nữa cho thấy Linh Lang chính là Lạc Long Quân. Chữ Linh tương đương với chữ
Lung, tức Long. Chữ Lang vốn là từ chỉ vua của người Việt. Linh Lang do đó
nghĩa tương đương là Long Quân.
Linh Lang còn là từ chỉ
chung các vị thủy thần thời kỳ Lạc Long Quân vì Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết những người con theo Lạc Long
Quân xuống biển được gọi là các “Thủy thượng Linh thần”.
Ở vùng Bắc Ninh đặc biệt có
tín ngưỡng thờ 3 vị Việt Nam Lạc Thị xuất hiện dưới dạng 3 con rồng trên trán
có chữ Lạc Vương. Khi đối chiếu trên thực tế thì đó là Kinh Dương Vương (như ở
lăng Kinh Dương Vương tại Á Lữ), Lạc Long Quân (như ở làng đúc đồng Đại Bái) và
Hùng Vương (như ở đền Bình Ngô). Tương tự như cách thờ 3 vị Hùng Vương Thánh Tổ
ở Phú Thọ là Đột Ngột Cao Sơn, Viễn Sơn, Ất Sơn, trong dòng xuống biển 3 vị tổ
được thờ là 3 vị Việt Nam Lạc Thị.
Các vị thủy thần thời kỳ
Lạc Thị (thời lập quốc họ Hùng) không chỉ có Lạc Long Quân. Khi đối chiếu sự
tích, di tích và tên thờ ở các nơi thì có thể nhận ra các vị thủy thần đã làm
nên Công đồng của Thủy phủ trong tín ngưỡng người Việt. Nhận diện một số nhân vật
của Thủy phủ như sau:
- Thần Chính khí Long Đỗ là Động Đình Đế
Quân, ông ngoại của Lạc Long Quân.
-Long cung Liễu Nghị là Kinh Dương Vương, cũng
là Tản Viên Sơn Thánh của vùng núi Ba Vì.
-Mẫu Thoải là Thần Long Động Đình, mẹ của Lạc
Long Quân. Cũng là bà Đỗ Quý Thị Hương Vân Cái Bồ Tát trong dòng ngọc phả Cổ
Lôi của tổng Xốm Bình Đà.
-Vua cha Bát Hải Động Đình là Lạc Long
Quân.
-Ngũ vị Tôn quan là những người anh em sinh
cùng bọc với Long Quân (lục bộ thủy phủ hay Đoài hồ Thất giáp).
-Lãng Nhạc Quý Minh là người chú của Lạc
Long Quân, em của Tản Viên Sơn Thánh - Kinh Dương Vương.
Diễn biến lịch sử
của thời kỳ này có thể kể như sau. Kinh Dương Vương lên ngôi ở vùng Ngũ hành
cung Tản Viên tại Ba Vì (Sơn Tây) đã lấy Thần Long, con của Động Đình Đế Quân ở
miền sông biển. Kinh Dương Vương tiếp ngôi của Thánh tổ Đế Nghi theo lối truyền
hiền nên khi ông mất định trả lại ngôi vị cho chính dòng Đế Nghi là Đế Lai. Tuy
nhiên, con của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân đã không nhường, dựa vào những
người anh em Thủy phủ bên ngoại của mình đã đánh đuổi Đế Lai, giành lấy ngôi vị
thiên hạ (trong hình ảnh bà Âu Cơ). Các thần tích kể thành chuyện các vị thủy
thần giúp vua Hùng (Lạc Long Quân) đánh Thục.
4.000 năm trước Lạc Long
Quân giành được ngôi chủ thiên hạ, lập Thủy quốc Động Đình, lấy khu vực hồ Dâm Đàm
bên bờ sông Hồng làm kinh đô. Long Quân phân phong cho những người anh em công
thần lập quốc phụ trách ngũ phương nơi đầu sông góc biển, trở thành các vị Long
hầu của Thủy quốc. Từ đây, lịch sử Việt bắt đầu chế độ cha truyền con nối (Lạc
Long Quân kế nối Kinh Dương Vương), gọi vua là Cha, của dòng Lạc thị.
Giai đoạn này bắt đầu từ
Kinh Dương Vương nên được gọi là Kinh triều. Kinh triều truyền nhiều đời cha
con kế nối nhau làm vua, cho tới thời Hùng Duệ Vương là đời cuối cùng của Kinh
triều. Trong gần 1.000 năm của Kinh triều Lạc Thị nhân dân an cư lạc nghiệp, mở mang
bờ cõi ven các con sông lớn ở đồng bằng Bắc Bộ, thậm chí phát triển sang cả lên
vùng phía Bắc, vượt sông Hoàng Hà, hình thành các nhóm tộc người như người Kinh
- Mường, Tày – Thái – Choang, Mông – Dao...
Câu đối ở đền Đồng Bằng
thờ Vua cha Bát Hải Động Đình cùng các vị Tôn quan Thoải phủ:
Tứ
thiên niên quốc tục thượng thần, Bát Hải long phi truyền dị tích Thập
bát hiệu Hùng triều xuất thế, Đào giang hổ lược chấn linh thanh.
Nghĩa là:
Bốn
nghìn năm nước gọi thượng thần, biển Bát rồng bay truyền tích lạ Mười
tám hiệu triều Hùng xuất thế, sông Đào hổ lược dậy danh thiêng.
Đây cũng là những nội
dung chính của cuốn sách Kinh triều bảo
lục – Sử tích Long Quân và các vị Thủy thần Lạc Thị do Nhóm Nghiên cứu Di sản
Văn hóa Đền miếu Việt xuất bản năm 2025. Cuốn sách đã phân tích, đối sánh giai
đoạn lịch sử Kinh triều Lạc Thị từ các góc độ thời gian, không gian, tín ngưỡng,
nhân vật và dân tộc, khái quát thành các sơ đồ lịch sử rõ ràng và súc tích,
cũng đồng thời cung cấp các văn bản Hán Nôm từ các di tích còn lưu lại tới ngày
nay. Cuốn sách không chỉ là tập hợp những tư liệu di sản văn hóa mà còn mang lại
một cách nhìn mới, minh định rõ ràng về thời đại của vua cha Lạc Long Quân cùng
những người con xuống biến khai mở ra nền văn minh sông Hồng từ 4.000 năm lịch
sử.