Sunday, July 13, 2025

Cô Tấm và ông Bụt

Nguyên phi Ỷ Lan được biết là rất coi trọng đạo Phật, cho xây nhiều chùa chiền mà các di tích khảo cổ và tín ngưỡng vẫn còn để lại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, thực sự là dòng phái Phật giáo nào đã giúp cho Nguyên phi Ỷ Lan trở thành một Thần phi, một Hoàng hậu nhiếp chính rồi Hoàng Thái hậu? Lần theo sự tích của Nguyên phi Ỷ Lan kết hợp với các di tích còn lại có thể cung cấp thêm những nhìn nhận mới về Phật giáo và văn hóa đầu thời Lý.

Cầu duyên trên quê hương Thổ Lỗi – Sủi

Trong thần tích trong bản khai thần tích thần sắc của làng Thục Cầu (Đồng Xá, Văn Lâm, Hưng Yên) thì tên của Nguyên phi Ỷ Lan được chép như sau:

Thái hậu quê ở làng Cổ Lỗi, huyện Siêu Loại, xã Dương Xá. Cha là ông họ Lê tên Quyết. Mẹ là Võ Thị Tĩnh Nương. Gia đình lấy nghề trồng dâu làm nghiệp. Lại nằm mộng điềm lạ nuốt sao Thái âm mà sinh được một người con gái, tức là Thái hậu vậy. Đặt tên là Yến, còn gọi là Cám (Cảm), còn có hiệu là Khiết nương.

Tên vua Lý Thánh Tông phong cho Nguyên phi là Ỷ Lan thực ra là tên chữ, vận dụng phép phiên thiết từ tên thời con gái của bà vì Ỷ Lan đọc thiết âm là Án = Yến. Tương tự, tên làng Thổ Lỗi vốn cũng là tên phiên thiết của âm Nôm là Sủi vì âm Th- xưa đọc như S-. Dẫn chứng khác là làng này có lúc được ghi là Thượng Lỗi, có cùng âm phiên thiết như Thổ Lỗi. 

Điểm bổ sung là sau Lý Thánh Tông cho đổi tên Thổ Lỗi thành Siêu Loại, thực ra vẫn là giữ âm phiên thiết của chữ Sủi. Tức là:

  • Thổ Lỗi hay Thượng Lỗi thiết Thổi – Sủi
  • Siêu Loại thiết Soại – Sủi.

Thần tích Thục Cầu cho biết khi Khiết nương bị em lừa lấy hết cá thì người đã giúp Khiết nương là vị lão tăng chùa Linh Nhân có tên là Đại Điên. Tức là trong nếu so với truyện cổ tích Tấm Cám thì ông Bụt hiện lên chính là sư Đại Điên.

Tiếp đó khi cá bống bị giết cũng chính vị tăng này (Đại Điên) đã bảo Khiết nương thu xương cá chôn ở góc giường và sau trăm ngày được một đôi hài đẹp. Khiết nương mang đôi hài ra phơi trước sân thì bị một con “chim thần” tha mất một chiếc hài đem thả vào cung nhà vua. Nhà vua cho đó là điềm sinh Hoàng tử kế vị và ngay sau đó đã về chùa Linh Nhân ở huyện Siêu Loại lập đàn cầu nguyện, vì thế mà gặp được Khiết nương đang hái dâu, đưa về lập làm Thần phi.

Có thể thấy rõ ràng rằng đây là một sự sắp đặt của vị tăng Đại Điên, từ việc làm ra đôi hài, mang hài bỏ vào cung đình rồi đánh tiếng để cho nhà vua về cầu nguyện tại chính chùa của mình (chùa Linh Nhân). Ngôi chùa Linh Nhân này nay là chùa Linh Nhân Tư Phúc ở Dương Xá, Gia Lâm. Linh Nhân cũng là tên thờ của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Còn có chùa Phú Thị (chùa Sủi) có lễ hội Bông Sòng, trả lại trong sạch cho nội thị Nguyễn Bông, người đã “tham vấn” sư Đại Điên ở chùa Linh Nhân. Có thể chùa Sủi là quê hương của Nguyễn Bông (Nguyễn Bông có thể là người cùng quê với Nguyên phi Ỷ Lan).

Quê hương của Nguyên phi Ỷ Lan ở Dương Xá thuộc tổng Dương Quan, phủ Thuận Thành, Bắc Ninh xưa. Xã Dương Xá có mấy thôn: Đanh, Đá, Trung. Những cái tên Đanh, Đá gợi nhắc tới Bà Đanh, Bà Đá trong tục thờ Tứ pháp.

Đặc biệt là trong cùng tổng Dương Quang, ở phía bên kia sông Thiên Đức đối diện với Dương Xá là làng Đề Trụ. Làng này tới nay còn đền thờ Thiên Đế Đế Thích. Đây là một liên hệ cho thấy khả năng vị tăng Đại Điên ở chùa Linh Nhân là một vị sư tu theo đạo thờ Thiên Đế, bởi Đế Thích mới là vị thần có thể cầu duyên và cầu tự, chứ không phải Phật Thích Ca.

Sự tích Ông hàng Dầu đã thấy mây lành che trên đầu Khiết nương và khuyên nàng đi xem vua ở Dương Xá chắc hẳn cũng có ý nghĩa. Dầu là thứ để thắp sáng (Quang) nên rất có thể tương ứng với cái tên Dương Quang của tổng này. Cái tên Dương Quang cũng nhắc tới liên hệ với Thạch Quang Phật trong tín ngưỡng Tứ pháp.

Cầu tự nơi kinh thành Thăng Long

Lý Thánh Tông rước Khiết nương về Thăng Long, cho ở cung Ỷ Lan, phong là Thần phi. Dấu vết của cung Ỷ Lan nay là chùa Kim Cổ, vốn là Đồng Thiên quán, tương truyền là nơi Nguyên phi Ỷ Lan thờ “đạo Giáo”. Tuy nhiên, Nguyên phi Ỷ Lan là người tôn sùng “đạo Phật”, sao lại đi lập Đạo quán ở ngay nơi ở của mình? Cái tên “Đồng Thiên” của quán này cho thấy khả năng nơi đây thờ Thiên Đế của “đạo Phật”, chứ không phải thờ thần của đạo Giáo.

Nguyên phi Ỷ Lan vốn được sự giúp đỡ của “ông Bụt” Đại Điên mà trở thành cung phi, sau đó lại cũng nhờ ông Bụt này mà sinh được Hoàng tử. Nên quán nơi cung điện của bà phải là thờ “Bụt” mới đúng.

Chuyện Nguyên phi Ỷ Lan cầu tự được con trai liên quan trực tiếp đến tăng Đại Điên. Thần tích Thục Cầu kể rằng sau khi vào cung, Thần phi Ỷ Lan (thần tích khác chép là tiểu nhân là Nguyễn Bông) vẫn thường về chùa Linh Nhân cúng dường. Tăng Đại Điên đã “tư vấn” cho Nguyễn Bông nhìn trộm Thần phi để đầu thai làm Thái tử. Dấu vết nơi Nguyễn Bông đầu thai là chùa Thánh Chúa ở Dịch Vọng, Hà Nội.

Điều lạ là tăng Đại Điên lúc này không còn ở huyện Siêu Loại nữa mà đã về vùng Dịch Vọng ở tại chùa Duệ Tú. Thần tích Duệ Tú cho biết ông là người quê ở tại vùng này, có tên là Lê Toàn Nghĩa. Khi tu hành đã trở thành một vị lương y và thiền sư có nhiều công lao. Rõ ràng rằng tăng Đại Điên ở Thổ Lỗi đã “chuyển chùa” cùng với Thần phi về kinh đô. Và vị Đại Điên đã có công lớn trong việc giúp Thần phi Ỷ Lan “sinh con theo ý muốn”, sinh được Thái tử Càn Đức, nhờ vậy Ỷ Lan trở thành Nguyên phi nhiếp chính thời Lý Thánh Tông. Chú ý rằng sư Đại Điên cũng mang họ Lê như Khiết nương Lê Thị Yến.

Một lần nữa có thể thấy là tăng Đại Điên không phải dùng “Phật pháp” thiền môn mà là một Pháp sư có khả năng giúp đầu thai và chữa bệnh. Câu chuyện đầu thai của Nguyễn Bông có điểm giống với cách Khâu Đà La bước qua người Man Nương mà sinh ra Tứ pháp trong sự tích chùa Dâu thời trước.

Cũng chính nơi chùa Duệ Tú này nay còn mộ của tăng Đại Điên, bởi trong chuyện Thánh Láng Từ Đạo Hạnh đã báo thù cha và giết chết Đại Điên ở nơi đây. Đại Điên đầu thai thành đứa bé là Giác Hoàng, biết rất nhiều chuyện của cung đình, nên đã được vua đưa về kinh sư cho ở trong chùa Báo Thiên để đầu thai lại vào hoàng thất. Sau đó Giác Hoàng bị Từ Đạo Hạnh ngăn cản mà chết. Tại chùa Duệ Tú Đại Điên được tôn là Thánh tổ Lê Nghĩa hiệu Giác Hoàng Đại Điên Thiền sư.

Câu chuyện Đại Điên đầu thai thành Giác Hoàng cũng như việc tranh đấu với Từ Đạo Hạnh càng chứng tỏ lối tu của Đại Điên là lối tu theo Thiên Đế. Ngay việc Giác Hoàng được đưa về chùa Báo Thiên cũng cho biết điều này, bởi chùa Báo Thiên vốn là ngôi chùa thờ Thiên Đế, thường được dùng để cầu mưa, như việc rước Pháp Vân từ chùa Dâu về đây cầu mưa. 

Theo Việt điện u linh, khi Từ Đạo Hạnh chuẩn bị viên tịch có nói với các đệ tử: Ta chưa hết nhân duyên với đời, lại phải thác sinh làm vua ở nhân gian, khi nào chết lại về làm chủ “Tam thập tam thiên”. Vị thần chủ của “Tam thập tam thiên”, cõi trời 33, là Vua trời Đế Thích (Thiên Đế). Từ Đạo Hạnh như vậy chính là hóa thân của Đế Thích.

Hoằng quang đạo pháp ở các chùa

Nguyên phi Ỷ Lan khi nắm được quyền triều chính đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa mà dấu vết của chúng còn lại cho tới ngày nay. Điều đặc biệt là khi xem kỹ những ngôi chùa này, ta lại thấy có nhiều dấu vết và liên hệ đáng ngạc nhiên đến tục thờ Vua trời Đế Thích và Tứ pháp. 

Điển hình ở tại quê hương Văn Lâm của bà có chùa Hương Lãng là chùa cổ từ thời Lý với những bậc đá hình con sấu và chim phượng cùng với bệ sư tử đá lớn nhất thời Lý còn thấy được. Trong khuôn viên chùa còn xây am thờ Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Rất ngạc nhiên là chùa Hương Lãng còn có tên là Pháp Lôi tự, tức là chùa thờ Pháp Lôi trong hệ thống Tứ pháp. Chùa Hương Lãng được gọi là chùa Ông Sấm, nhưng ông Sấm ở đây không phải chỉ bệ sư tư đá còn trong chùa, bởi bệ đá hình như vậy còn gặp ở những nơi khác và không đâu gọi sư tử là ông Sấm cả. Ông Sấm thực sự là tượng Pháp Lôi, có lẽ đã từng có đặt trên bệ sư tử này vào thời Lý.

Ngôi chùa lớn nổi tiếng khác là chùa Dạm ở Quế Võ, Bắc Ninh. Chùa Dạm còn gọi là chùa Bà Tấm, có đền thờ Hoàng thái hậu Ỷ Lan. Các làng xung quanh đó như Môn Tự, Tự Thôn, Sơn Nam đều thờ bà. Tương truyền nơi đây là nơi Hoàng Thái hậu đã về tu hành vào cuối đời. Chùa Dạm có nền khảo cổ 3 cấp thời Lý và đặc biệt là còn một chiếc cột đá chạm rồng lớn còn nguyên vẹn. Nhiều nhà nghiên cứu đã từng cho rằng cột đá rồng chùa Dạm là ngẫu tượng của Linga. Nói cách khác, nơi đây là nơi thờ “đạo Phật” theo hướng tương tự như đạo Bà la môn ở miền Trung.

Chùa Dạm sau này từng được sư Không Lộ trụ trì theo sách Lịch triều hiến chương loại chí. Không Lộ cũng là một vị pháp sư cùng với Từ Đạo Hạnh và Giác Hải kết nghĩa, đi học đạo ở phương Tây, nhưng chưa đến đất Phật mà dừng ở nước Kim Xỉ. Đạo học của Tam vị Thánh Tổ triều Lý này như vậy thực ra không phải đạo Phật chính tông, mà là Ấn Độ giáo, tôn thờ Tam vị nhất thể trong hình ngẫu tượng Linga như ở miền Trung Việt Nam.

Các hiện vật khảo cổ các chùa thời Lý cho thấy nghệ thuật tạo hình thời kỳ này mang đậm nét của “văn hóa Chăm” với những vũ công được thể hiện theo phong phồn thực. Hay như tượng Nhạc công thiên thần đầu người minh chim tìm thấy ở chùa Phật Tích. Rồi những bức tượng, phù điêu bằng đá sa phiến thạch được sử dụng làm tượng thờ và trang trí đền chùa, rất đặc trưng. Thực ra đây không phải là “văn hóa Chăm”, mà là văn hóa của đạo Bà la môn (Ấn Độ giáo) đã trở nên thịnh hành ngay từ đầu thời Lý.

Ngay tại đền Ghênh ở Như Quỳnh (Văn Lâm, Hưng Yên) đã tìm thấy hiện vật chính thời Lý là một “Kính Thiên đài” với bệ chạm sư tử ở dưới.  Đài Kính Thiên thì rõ ràng là thờ Thiên, tức Vua trời Đế Thích.

Tại chùa Phật Tích, dấu vết truyền đạo Bà la môn xưa là những phiến đá lớn xếp hình trên đỉnh núi Tiên Du, gọi là Bàn cờ đá, là “Phật tích” của vị tăng Bà la môn là Khâu Đà La (theo bia ở chùa tổ Mãn Xá). Núi Tiên Du là nơi Khâu Đà La tu hành cùng với Man Nương mà sinh Tứ pháp. Hiện nay tại đây có chùa Linh Quang ở thôn Vĩnh Phú bên sườn núi phía Nam sau chùa Phật Tích, là nơi Khâu Đà La tu hành, nay còn tượng thờ.

Nhưng kỳ lạ hơn nữa là ngay cạnh chùa Linh Quang chính là đền Bà Tấm thờ Nguyên phi Ỷ Lan. Nhân dân ở đây tương truyền đây là mộ của bà. Trong nền chùa và đền này đã phát hiện rất nhiều hiện vật thời Lý, gồm cả những viên gạch có chữ “Lý gia đệ Tam đế Chương Thánh Gia Khánh lập tạo”, “Lý gia đệ tứ Long Thụy Thái Bình lập tạo”. Tại sao Bà Tấm lại chọn nơi xuất xứ của vị Bà la môn Khâu Đà La làm nơi xây chùa đền và gửi hồn xác của mình?

Khâu Đà La là hiện thân của Vua trời Đế Thích cùng Tứ đại Thiên Vương là Phong Điều Vũ Thuận hay Vân Vũ Lôi Điện trong tín ngưỡng Tứ pháp của vùng đất Siêu Loại – Thuận Thành xưa. Nguyên phi Ỷ Lan cũng như nhà Lý bát đế có quê hương gốc ở vùng đất này nên việc thờ Thiên Đế trở thành tôn giáo chính của hoàng gia nhà Lý là việc dễ hiểu.

Thiền uyển tập anh chép câu hỏi của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan  đối với Quốc sư Thông Biện: Ngày 15 tháng 2, mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1016) Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu có lần đến trai tăng ở chùa Sư, cùng với các bậc kỳ túc thăm hỏi ý nghĩa Phật và Tổ, có gì hơn thua? Phật trú phương nào? Tổ ở nơi đâu? Đến đất nước này từ lúc nào? Trao truyền đạo đây, ai trước ai sau. Còn niệm tên Phật, đạt tâm Tổ, tuần tự truyền nhau, thì chưa biết cái nào là tôn chỉ?.

Phật nào? Tổ nào? Câu hỏi nghi vấn của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan cho thấy sự nghi ngờ của bà đối với “đạo Phật” của các dòng thiền lúc này. “Tổ đến đất nước này” thì rõ ràng là chỉ Khâu Đà La.

Như vậy, vào đầu thời Lý với vai trò của Pháp sư Đại Điên chuyên về cầu duyên, cầu tự, đầu thai, giúp Nguyên phi Ỷ Lan ở vùng Siêu Loại, nối tiếp là 3 vị Thánh Tổ đi học đạo ở Miến Điện về cũng đầu thai (Từ Đạo Hạnh), rồi hàng long diệt hổ (Đại pháp sư Không Lộ và Giác Hải) có thể thấy Ấn Độ giáo lúc này đã trở thành một chính giáo của triều đình, có ảnh hưởng sâu sắc đến nền chính trị của nhà Lý cũng như văn hóa nghệ thuật đương thời. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên” thời Lý có lẽ phải là Lão giáo – Phật giáo – Ấn Độ giáo mới đúng, bởi Nho học không phải là tôn giáo. Chính nét Ấn Độ giáo này mới làm nên một văn hóa tín ngưỡng tôn giáo riêng của nhà Lý ở phương Nam, khác biệt với những dòng thiền của Trung Hoa khi đó.

Bài tham luận trình bày tại buổi sinh hoạt tháng 6/2025 của CLB Di sản và Văn hóa Á Đông tại chùa Sủi – Phú Thị.

Một vài hình ảnh minh họa

Thần tích của thôn Tự Thôn ở Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh ghi trong sách Hà Bắc nghìn năm văn hiến.

Kiệu thờ Ông hàng Dầu tại đền Bà Tấm, Phú Thị, Gia Lâm.

Ban thờ Khâu Đà La ở chùa Linh Quang, cạnh đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan ở thôn Vĩnh Phúc, Phật Tích.

Tượng Thiên Đế Đế Thích ở đền làng Đề Trụ, xã Dương Quang, Gia Lâm, Hà Nội.

Tượng Giác Hoàng Đại Điên ở chùa Duệ Tú.

Tên chùa Hương Lãng, nơi có các bậc sấu đá và bệ sư tử thời Lý: Pháp Lôi tự.

Kính? Thiên đài – di vật thời Lý ở đền Ghênh, Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên.

No comments:

Post a Comment