Năm 2015 một chiếc chuông đồng cổ lớn đã phát hiện ở làng Nhân Vũ (Nguyễn Trãi, Ân Thi, Hưng Yên). Chuông cao hơn 1m, đường kính miệng 60cm. Trọng lượng chuông khoảng 200kg. Phần thân chuông chia là 4 mặt. 4 mặt phía trên có hình Phật ngồi tòa sen và minh văn. Phía dưới là ô vuông chạm hình các muông thú (rồng, voi, trâu, rùa) ẩn trong mây sóng nước. Phần chỉ dọc của 4 mặt chia thành đường, có khắc chữ. Quai chuông hình rồng hai đầu (Bồ lao). Đỉnh quai có hình búp sen (đặc điểm tương tự thấy trên các chuông cổ thời Trần khác). Miệng chuông loe có chạm khắc hình cánh sen.
Đây là một chiếc chuông lớn có 4 mặt đúc đầy chữ và 4 vành, mỗi vành gồm 3 cột cũng có chữ khắc. Tuy nhiên phần nửa trên của chuông đã bị phong hóa bào mòn nên mất gần hết chữ. Chỉ còn đọc được nửa dưới mỗi mặt. Tổng số những chữ còn có thể đọc được là trên 600 chữ.
Bài minh văn phần thân chuông bắt đầu bằng mô tả con đường làng nhỏ qua cầu có ngôi chùa… Chuông đồng là sắc giới nghiêm trang, mở âm thanh tịnh. Chuông là khí đánh vang, Phật thường hiện. Phật là vô tướng, đâu cần phải nhìn thấy, chạm vào mới cảm nhận được sự hiển linh của Phật. Do đó người Việt chốn thiền (sư?) đã mở đàn việt quyên góp các thí chủ để đúc chuông. Năm Nhâm Dần tháng đầu đông (tháng 10) ngày mùng 1 đúc chuông lớn. Quang cảnh chùa ở nơi hương thôn từ cổ xưa, có nhiều người tín Phật, khung cảnh yên tĩnh, là nơi cúng tế các việc sinh tử. Có tiếng ca hát, mênh mông nguy nga. Có đài cửa phẩm liên hoa rậm rạp. Phảng phất hình sông nước, gò đồi. Chùa mới như một Kỳ viên ngàn thôn. Có chuông là pháp khí. Dựng lầu trống, lầu chuông. Người thợ nhân cũng là người làng xóm gần đó mà làm bài minh ghi lại việc nhân nghĩa.
Bài minh rằng:
… chuông là sự hiển hiện của Phật, Phật lấy chuông làm thịnh
… âm kình phát ra quần long sinh gió
… treo ở lầu cao, tiếng kêu vang vang.
Phần chữ nhỏ ở cuối bài ghi lại đàn việt quyên góp và những người đã đóng góp đất đai, tiền để xây chùa.
Người viết bài minh là Lê Tịnh, hiệu Ba Lãng.
Phần chữ trên viền chỉ dọc chuông được khắc sau khi đúc chuông, nội dung ghi những người đã tiến thí (đóng góp) ruộng, tiền để xây dựng các công trình trong và quanh chùa. Các công trình này là để bổ sung tượng, đồ dùng cho tòa Tam bảo trong chùa, để làm con đường và cây cầu nổi đi vào chùa. Thời điểm khắc chữ ở phần viền chỉ là vào tháng 11 năm Nhâm Dần (tức là sau khi đúc chuông 1 tháng).
Đặc biệt trên phần chữ ở viền chuông có nói đến các địa danh hành chính của người tiến thí cho chùa là ở lộ Khoái Châu xã Đãn Chàng và xã Dược thuộc động Yên Viên. Xã Đãn Chàng có thể nay là xã Đan Chàng, một xã cùng tổng Nhân Vũ với nơi phát hiện ra chiếc chuông thời Nguyễn. Còn xã Dược thuộc động Yên Viên gần đó có thể là nằm trong tổng Yên Canh thời Nguyễn với các khu vực cận kề thuộc xã Mão Cầu.
Đơn vị hành chính “lộ” ở nước ta bắt đầu từ thời Lý, phổ biến ở thời Trần và chấm dứt vào đầu thời Lê. Sau khi thống nhất đất nước, Lý Thái Tổ đã chia Đại Việt thành 24 lộ, thay thế cho 10 đạo thời Đinh – Lê. Nhà Trần tiếp tục duy trì đơn vị hành chính lộ, nhưng giảm số lượng xuống còn 12. Khi nhà Minh xâm chiếm nước ta đã áp dụng chế độ phân giới hành chính theo phủ, không còn đơn vị “lộ” nữa. Đến vua Lê Thái Tổ đã chia cả nước ban đầu thành các đạo.
Với địa danh “lộ Khoái Châu” được khắc trên chuông thì có thể xác định chắc chắn rằng đây là chiếc chuông thuộc về thời nhà Trần. Chuông được đúc vào năm Nhâm Dần, thì trong giai đoạn này có các năm sau:
- Năm 1302 thời Trần Anh Tông
- Năm 1362 thời Trần Dụ Tông
Rất khó xác quyết chiếc chuông này ở vào thời Trần Anh Tông hay Trần Dụ Tông. Nhưng với mối liên hệ của vùng đất này với Huyền Trân công chúa (em vua Trần Anh Tông) và loạn lạc thời kỳ cuối triều Trần Dụ Tông thì có thể nhận định rằng chuông được đúc vào năm Nhâm Dần 1302.
Nếu so sánh chiếc chuông Nhân Vũ với các chuông thời Trần đã biết là chuông chùa Bình Lâm (Hà Giang), chuông Vân Bản (Hải Phòng) và chuông chùa Rối (Hà Tĩnh) thì chuông Nhân Vũ có nhiều điểm nổi bật hơn. Đó là chuông còn nguyên vẹn, có chạm khắc không chỉ hoa văn mà còn hình Phật tọa thiền và các muông thú trong mây nước độc đáo. Về minh văn thì số chữ đúc và khắc trên chuông Nhân Vũ vượt xa số chữ tương ứng trên các chuông kia. Do đó chiếc chuông này xứng đáng được công nhận là Bảo vật quốc gia, như đã công nhận đối với những chiếc chuông thời Trần cùng thời.








No comments:
Post a Comment