Monday, September 30, 2024

Tứ Hải Thái Bình, tín ngưỡng thờ Hải thần ở Thái Bình

 

Thái Bình là tỉnh có cửa chính của sông Hồng đổ ra biển nên trong tín ngưỡng thờ thủy thần ở đây đặc biệt xuất hiện một hệ thống các vị thần biển mà nơi khác không có. Tuy nhiên, điều khác lạ nữa là các thần biển ở Thái Bình không phải chỉ có 1 vị, mà lại có đủ cả bốn phương tứ hải. Bản chất các vị Hải thần này ra sao, sẽ được làm sáng tỏ qua phân tích hệ thống các di tích thờ thủy thần ở Thái Bình.

Các vị hải thần được nói đến ở Thái Bình là những vị thủy thần, tức là những vị thần có nguồn gốc từ thời Hùng Vương, liên quan đến việc trị thủy, có thể là hiển linh qua các thời. Tên gọi “thủy thượng linh thần” hay “thủy tinh” dùng trong Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả để chỉ những người con của Lạc Long Quân đã được chia trị các vùng đầu sông góc biển. Phân biệt với các vị sơn thần là dòng theo mẹ Âu Cơ trị nhậm các nơi núi rừng, đồi gò.

Nếu từ “Sơn” được dùng chỉ các vị tổ thời Hùng Vương ở miền rừng núi thì từ “Hải” là để chỉ các vị thủ lĩnh cai quản vùng sông nước. Hải không chỉ có nghĩa là biển, mà là vùng ven sông nước nói chung. Do đó không chỉ có Đông Hải, Nam Hải, mà còn có Bắc Hải, Tây Hải, cho dù về mặt địa lý ở phía Bắc và Tây nước ta không hề có biển.

Phải chú ý là tên gọi các hải thần rất dễ lẫn với các nhân thần, tức là những nhân vật lịch sử ở thời kỳ gần hơn, đã từng cai quản hay có công nghiệp ở vùng ven biển Đông. Phổ biến nhất là Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng, một vị tướng nổi lên cuối thời Lý chống lại nhà Trần ở miền duyên hải. Cũng là tên Đông Hải Đại vương còn có vị tướng thời Lê là Nguyễn Phục, từng phụ trách việc quân lương, đã trung nghĩa tử tiết chịu tội để bảo vệ cho đoàn quân khỏi mưa bão trên biển Đông.

Nam Hải còn vốn là tên để chỉ khu vực miền Bắc nước ta thời kỳ trước Công nguyên, nên những vị quân chủ của nước ta khi đó khi hóa được tôn thần là Nam Hải Đại vương. Đó là vua An Dương Vương, người khi cùng đường chạy ra biển theo thần Kim Quy mà hóa. Đó cũng có thể là Triệu Vũ Đế, người đã khởi nghĩa chống Tần từ đất Thái Bình, nên được tôn là Nam Hải Đại vương hay Nam Hải Tạo lực.

Còn có Đại Càn Quốc gia Nam Hải Tứ Vị Hồng Nương, tuy là thủy thần nhưng theo một mạch tín ngưỡng khác với thủy thần họ Hùng. Tên gọi Đại Càn Quốc gia Nam Hải cho thấy Nam Hải ở đây là chỉ “quốc gia”, chứ không phải là chỉ miền biển.

Cũng là thời Hùng Vương với tên gọi là Nam Hải, nhưng lại không phải là thủy thần. Đó là Quan Âm Diệu Thiện, con gái vua Hùng đã đi tu đắc đạo ở vùng đất Nam Hải. Quan Âm Nam Hải là vị sơn thần điển hình bởi đây chính là bà chúa Ba, tức bà chúa Thượng Ngàn.

Các di tích thờ Hải thần ở Thái Bình có thể được chia thành ba tuyến như sau.

Cụm di tích ven sông Luộc

Sông Luộc là dòng sông không đổ trực tiếp ra biển mà có dòng chảy ngang nối giữa sông Hồng và sông Thái Bình. Sông Luộc chảy qua địa phận hai huyện Hưng Hà và Quỳnh Phụ, với số các di tích thờ Hải thần tương ứng là 6 di tích ở Hưng Hà và 7 di tích ở Quỳnh Phụ. Có thể thấy đây là còn số khá khiêm tốn khi so với những cụm di tích ở phía Nam Thái Bình.

Trong số các Hải thần vùng sông Luộc chiếm lượng di tích nhiều nhất là thần Đông Hải. Sự tích vị thần này thường là không được biết rõ. Duy nhất ở xã Phú Sơn, huyện Hưng Hà có sự tích vị Đông Hải Đà La Đại vương hiển linh vào thời Lý đánh giặc Hồ Tôn Tinh.

Một số di tích khác ở vùng sông Luộc thờ Nam Hải, hiếm hơn có thần Tây Hải, nhưng cũng tương tự, đều không rõ sự tích. Thần Bắc Hải không thấy xuất hiện trong các di tích tín ngưỡng ở khu vực này.

Cụm di tích ven sông Diêm Hộ

Diêm Hộ là một sông nhỏ, bắt nguồn từ phía Nam huyện Quỳnh Phụ nhưng lưu vực của nó chủ yếu nằm ở huyện Đông Hưng và Thái Thụy. Thế nhưng điều lạ là lưu vực sông nhỏ Diêm Hộ lại là nơi có số lượng các vị Hải thần nhiều nhất. Huyện Đông Hưng có khoảng 14 di tích. Huyện Thái Thụy có khoảng 16 di tích. Số liệu này cho thấy mức độ dày đặc các di tích thờ Hải thần ở ven sông Diêm Hộ. Đơn cử như ở 1 xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, là tổng Trừng Hoài xưa, có tới 8 di tích thờ Hải thần. Trong đó 1 làng xưa chia thành vài thôn, mỗi thôn thờ 1 hoặc 2 vị ngay trong cùng 1 làng, với đầy đủ bộ 4 vị Đông Hải, Nam Hải, Tây Hải và Bắc Hải.

Với số lượng và mức độ phong phú đủ Tứ Hải thần như vậy thì có thể nhận định rằng vùng sông Diêm Hộ là nguồn gốc phát sinh của tín ngưỡng thờ Hải thần ở Thái Bình. Cũng ở khu vực này, các thần đã được thờ với sự tích tương đối rõ ràng hơn, mà cụ thể có thể thấy qua một số di tích.

Nam Hải Đại vương ở đình đền An Cố, Thái Thụy là vị thần có sự tích khá đầy đủ, cho biết ngài mang họ Phạm, là một vị tướng thời Hùng Duệ Vương. Khi ngài cai quản đã dẹp yên nạn hồng thủy, trừ thiên tai dịch bệnh cho nhân dân trong vùng. Ngài dạy bảo thần dân làm ăn thịnh vượng. Khi đất nước có giặc Thục xâm phậm, ngài cùng với Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn, Quý Minh đánh tan quân Thục. Có thể thấy sự tích về Nam Hải Đại vương ở An Cố không khác gì sự tích về Trung Thành Phổ Tế Đại vương của vùng sông Hồng. Vị thủy thần họ Đào này từng nắm chức vụ là Thổ Lệnh Thống quốc Lạc Long hầu Nam long Trưởng lệnh, tức là cùng hướng Nam trong bộ nhất bào ngũ tử.

Sự tích về Tứ Hải thần rất bất ngờ được biết qua di tích đình Lưu ở xã Đông Phương, huyện Đông Hưng. Theo thần tích của làng cho biết: dưới thời An Dương Vương, vua Thục mắc mưu quân Triệu Đà nên để đất nước rơi và tay giặc. Khi đó Vũ Cao Lỗ tướng công và một số trung thần con vua đã cùng ông Đồng phó tướng luyện binh. Được tin vua Thục thua trận rẽ nước xuống Trấn Thuỷ Phủ, hai ông chỉ còn biết kêu trời lạy đất cho quân sỹ trở về. Hai ông cho lui tới địa đầu vùng an lạc và cho quân nghỉ ở thôn An Vĩnh, nằm nghỉ trong miếu hai ông mộng thấy Thục An Dương Vương than vãn và phán rằng: Thượng đế đã phán xét chuẩn cho được trở lại Long Cung và truyền phong làm Nam Hải trấn trị hoành hợp các cửa sông để xoá đi cho tội lỗi đã qua vì trước đây hiếu thảo phụng sự Động Đình Đại đã có công. Ngoài ra hiện thân đã nhận việc là phối hợp với Đông Tây Bắc Hải các vị Long Vương đi cứu giúp dân cấy trồng được sinh lợi. Nói xong hai ông không thấy bóng dáng Thục An Dương Vương mà thấy một vị quan ở cổ miếu An Lạc xuất hiện. Tay trung thần cầm đao chiến của Thượng đế trao cho 2 ông, 2 ông đọc tờ chiếu, đọc xong trông lên cũng không thấy vị thần quan đâu. Hai ông liền ra sân lạy tạ Hoàng Thiên và quyết tâm thực hiện lời chiếu. Tiếp từ đó về sau các cửa sông, bờ biển nếu có gió bão, thuỷ tai dẫn đến đê điều bị phá huỷ, các vị thần đã luôn giúp dân trấn trị và hoành hợp thu được kết quả khả quan rất lớn. Do vậy các nơi đã lập đền miếu thờ tự – các vua trần gian hạ phối đều nam cấp duệ, hiện theo cửa sông thuộc phương nào là phong sắc với hàm vị: Đông – Tây –Nam – Bắc Hải Vĩnh trấn Đại Vương (sao từ bản gốc ở xã An Lạc trên đề Đình Lưu xã Đông Phương – Huyện Đông Hưng- cùng phụng sự).

Từ thần tích trên ta thu lượm được một số thông tin quý giá:

- Thục An Dương Vương khi thua mất nước đã xuống Thủy phủ rồi được phong là thần Nam Hải, trấn trị các cửa sông. Thần tích gốc lấy từ xã An Lạc (nay là xã Đông Vinh cùng huyện Đông Hưng).

- An Dương Vương hiển linh “phối hợp với Đông Tây Bắc Hải các vị Long Vương đi cứu giúp dân cấy trồng được sinh lợi”. Đây là thông tin rất then chốt cho biết các vị Hải thần là các Long vương hiển linh làm phúc thần cùng với An Dương Vương.

- Các vua đời sau theo cửa sông thuộc phương nào là phong sắc với hàm vị: Đông – Tây – Nam – Bắc Hải Vĩnh trấn Đại Vương.

Như vậy Nam Hải An Dương Vương lại có liên quan đến Thủy phủ Động Đình và Tứ Hải Long Vương.

Một chút manh mối khác về Tây Hải Đại vương là ở đình Bái (Long Bối) xã Đông Hợp, huyện Đông Hưng kể rằng Tây Hải Đại vương là vị thần có công hộ đê thời Hồng Đức, phối thờ ở đây cùng với Đông Hải Nguyễn Phục và Nam Hải An Dương Vương. Sự tích tương tự về Tây Hải Đại vương hiển linh thời Lê còn gặp ở khu vực phía Nam Thái Bình trên lưu vực sông Trà Lý. Còn đối với thần Bắc Hải, là vị thần ít gặp thì không rõ sự tích, chỉ biết là phúc thần.

Sông Diêm Hộ cũng là nơi phát tích của sự tích vua cha Bát Hải Động Đình. Theo thần tích thôn Đào Động (nơi có đền Đồng Bằng thờ vua cha Bát Hải) thì Quý Nương sinh một bọc trứng, nở ra 3 con rắn. Con rắn thứ nhất ở cửa sông trang Đào Động. Con rắn thứ hai chạy về cửa sông trang Thanh Do. Con rắn thứ ba chạy về nằm ở trang Hoa Diêm. Ba địa điểm xuất thế của các vị thủy quan Động Đình này là Đào Động – Thanh Do – Hoa Diêm, đều nằm dọc theo sông Diêm Hộ. Ba con hoàng xà sau hóa thành ba vị tướng quân, giúp vua Hùng đánh Thục và xây dựng làng xóm quê hương miền Đào Động.

Cũng ở Đào Động còn thờ và có thần tích 5 vị hoàng tử con vua Bát Hải Động Đình là 5 vị thủy quan đã giúp vua Hùng đánh Thục rồi 5 vị được cử đi quản trị các cửa biển. Giống như thần Nam Hải ở An Cố, đây cùng là những người anh em sinh cùng bọc dưới thời Lạc Long Quân (vua cha Bát Hải), làm thủy thần trấn trị ngũ phương. Tức cũng là Ngũ vị tôn quan trong Công đồng Thoải phủ.

Sông Diêm Hộ ngày nay là dòng sông nhỏ, nhưng với sự phát tích dày đặc của các vị Hải thần ở đây thì rất có thể trong quá khứ nơi đây đã từng là cửa chính của sông Hồng đổ ra biển Đông. Có như vậy thì đây mới có thể tập trung nhiều nơi thờ Hải thần theo lối cổ như vậy.

Cụm giữa sông Trà Lý và sông Hồng

Khu vực thờ Hải thần ở phía Nam Thái Bình không bám theo 2 dòng sông lớn ở đây là sông Hồng và sông Trà Lý, mà phân bố ở khoảng giữa lưu vực hai con sông này. Có thể thủy văn thời cổ sử khác so với vị trí hiện tại của sông Hồng và sông Trà Lý.

Về số lượng di tích thờ Hải thần có huyện Vũ Thư với 3 di tích, TP. Thái Bình có 2 di tích. Huyện Kiến Xương có 12 di tích, huyện Tiền Hải có 7 di tích. Tuy số lượng di tích không hẳn nhiều như lưu vực sông Diêm Hộ nhưng các di tích ở đây thường là phối thờ 2, 3 vị Hải thần. Thường gặp là thần Đông Hải hoặc Nam Hải phối thờ với Tây Hải. Thần Bắc Hải không gặp ở khu vực phía Nam này.

Điển hình ở khu vực này là đền Vua Rộc tại xã Vũ An, huyện Kiến Xương, là một trong Chân Định tứ linh từ. Đền thờ 2 vị thần Đông Hải và Tây Hải Đại vương. Cho dù có sách cho rằng thần Đông Hải này là Đoàn Thượng thời Lý – Trần, nhưng ngay câu đối trong đền nói:

不記何年跡扥南交雙顯聖
相傳此地名髙真定四靈神
Bất ký hà niên, tích thác Nam Giao song hiển thánh
Tương truyền thử địa, danh cao Chân Định tứ linh thần.
Dịch:
Không biết tự năm nào, dấu thác Nam Giao hai hiển thánh
Lưu truyền nơi đất nọ, danh cao Chân Định bốn linh thần.

Câu đối cho biết đây là 2 vị cổ thần đã hiển thánh từ thời Nam Giao – Hùng Vương. Lạ nữa là câu đối khác trong đền đề:

瑞應金龜神爪依依留井上
威揚木馬健蹄隠隠仰橋邊
Thụy ứng Kim Quy, thần trảo y y lưu tỉnh thượng
Uy dương mộc mã, kiện đề ẩn ẩn ngưỡng kiều biên.
Dịch:
Linh ứng Rùa Vàng, móng thần y nhiên nơi giếng cũ
Oai dương Ngựa Gỗ, vó hùng thấp thoáng chốn cầu biên.

Không rõ tích thần trảo Kim Quy và dấu chân ngựa gỗ ở đây là nói tới sự tích nào. Rất có thể chỉ mối liên hệ tới vị Nam Hải An Dương Vương như ở huyện Đông Hưng đã kể trên.

Dù thế nào thì đền Vua Rộc chắc chắn là đền thờ các vị Hải thần. Điều này rõ ngay từ cái tên Rộc. Một số tác giả cho biết chữ Lạc có thể phục nguyên âm là Rộc, chỉ ruộng lúa. Tới nay người Mường vẫn gọi ruộng là rộc. Vua Rộc như vậy có thể là Vua Lạc hay Lạc Vương, phù hợp với thời Nam Giao mở nước.

Một sự tích lý giải khác cho đền vua Rộc lại có thể tìm thấy trong các đi tích thờ Hải thần trong cùng khu vực, là các di tích thuộc xã Bình Thanh cùng huyện Kiến Xương. Đây là tổng Đa Cốc xưa. Đình Đa Cốc thờ các vị Đông Hải Đại vương, Tây Hải Đại vương, Cao Sơn Quý Minh, Trưởng Thái Giám. Trong đó sự tích kể rằng Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng là con trai thứ 4 của Lạc Long Quân xuất thế, đã được người em cùng bọc của mình là Tây Hải Đại vương hiển linh phù giúp. Tây Hải Đại vương là con trai thứ năm của Lạc Long Quân. Đáng chú ý là Đa Cốc nằm ở gần sông Hồng nên sự tích có yếu tố của dòng Lạc Long như ở các tỉnh Hà Nam, Hưng Yên.

Như vậy sự tích ở Đa Cốc hoàn toàn tương đồng với đền Vua Rộc từ việc thờ 2 vị Đông Hải và Tây Hải, họ Lạc (Rộc), hiển linh ở thời Lý-Trần. Nói cách khác đây vẫn là các vị Hải thần dòng Lạc Long như ở khu vực sông Diêm Hộ nói trên.

Một số nơi ở Kiến Xương thờ thần Tây Hải với ghi nhận là vào thời Hùng Vương như ở đình Cao Mại Nhân (xã Quang Trung), đình Thượng Hiền (thôn Phú Cốc xã Nam Bình).

Một cụm di tích đáng chú ý khác của Kiến Xương là 3 làng Quân Bác, Bác Trạch, Phương Trạch thuộc tổng Nam Huân xưa, nay thuộc xã Vân Trường và Phương Công của huyện. Nơi đây có sự tích về 3 vị Hải Linh thần là Nam Hải Linh quan, Đông Hải Linh quan, Tây Hải Linh quan với truyền thuyết kỳ vĩ: thân các ngài cao vạn trượng, đầu to trăm thước, lấy sông làm nhà, lấy biển làm vườn, hít thở ngàn dặm, phun nước vạn thùng, tựa có 800 ngôi sao phù giúp sáng rực. Thần quẫy đuôi thành dông bão, đứng hàng đầu trong các vị thủy thần… 

Đặc điểm riêng nữa của vùng phía Nam Thái Bình là bên cạnh thờ Tứ Hải Long vương, nơi đây còn thờ những vị hải thần chung khác như Thủy Hải, Đại Hải, Long Vương, đặc biệt là ở huyện Tiền Hải và khu vực gần với sông Hồng. Những vị hải thần này là những vị cũng từng gặp ở vùng sông Hồng phía tỉnh Hà Nam và Hưng Yên. Một số nơi ở Tiền Hải và TP. Thái Bình còn thờ thủy thần Quảng Lợi Bạch Mã, tức là thần Long Đỗ như ở vùng Thăng Long.

Tóm lại, qua việc phân tích các di tích thờ Hải thần ở Thái Bình có thể thấy nơi đây, nhất là vùng sông Diêm Hộ, là nơi phát sinh ra tín ngưỡng này. Bốn vị Đông Hải, Tây Hải, Nam Hải, Bắc Hải là những vị Long hầu thời Hùng Vương, trấn nhậm các vùng cửa sông góc biển, tham gia vào cuộc chiến đánh Thục lập quốc ban đầu của Lạc Long Quân (Bát Hải Động Đình). Đây cũng là bộ Ngũ vị tôn quan của Công đồng Thoải phủ. Trong tín ngưỡng hải thần, các vị được thờ dưới hình thức là các thủy thần hiển linh tạo phúc cho dân. Dấu vết của Tứ Hải Long vương như được nói đến trong các sách đạo Giáo thời Tần Hán không ngờ lại chính là từ vùng cửa sông Hồng đổ ra biển tại Thái Bình.

No comments:

Post a Comment