Hoành phi Hữu long tắc linh, đền Đức Thánh Cả Hữu Vĩnh. |
Nước Đại Việt xứ Sơn Tây đạo Hưng Hóa, phủ Đà Dương (nay đổi là Quảng Oai) huyện Thanh Xuyên (nay đổi là Bất Bạt), làng Lăng Sương (nay đổi là trang Hữu Vĩnh), tổ phụ Tản Viên Sơn là Nguyễn Cao Hành, tổ mẫu Tản Viên Sơn là Đinh Thị Điên, sinh Tản Viên Sơn Thánh. Mẫu Đinh phi chủ ngọc bệ hạ sinh được trăm con thánh cháu thần.
Xưa Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng là hậu duệ
của họ Thần Nông. Kinh Dương Vương tên húy là Huyền, sinh Lạc Long Quân húy là Ai.
Khi đó có người con gái của Đế Lai tên là Mỹ, còn có tên là Thầm, sống ở động
Lăng Sương (tổ của Vương mẫu ở tại Bắc Biển,
huyện Thanh Nguyên), đi ra chơi ở bãi Trường Sa (Vương mẫu hái dâu ở bãi Bắc xã Sơn Bạn huyện Bất Bạt). Ngài Long
thích sắc đó mà kết thông. 10 tháng mang thai bầu, sinh ra trăm trứng. Qua tầm
trong tháng (không mang thai là 7 ngày)
trăm trứng vỡ ra, sinh xuất những người con trai, không bú mớm mà tự trưởng
thành. Khi mới sinh thì ở bản châu, cho nên lấy bản châu làm đất tổ.
Một hôm Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
-
Ta là giống rồng, nàng là giống
tiên, chủng loại không cùng, nay khó kết đồng.
Nhân đó cùng nhau phân chia, 50 người con
theo cha về biển là Thủy tinh (Đức thánh Quảng Xung Đại vương là huynh trưởng của
trăm thánh, quyền kiêm quản sông núi hồ biển ở thông cả 13 xứ, cả sông Tam Kỳ,
ngự chính ở thần cung điện tại thôn Phú Dư, xã Hữu Vĩnh, Hoài An, Ứng Thiên, đạo
Sơn Nam):
Lân
Lang, Xích Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Cận Lang, Chiếu Lang, Tiêu Lang,
Diệu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngô Lang, Hấp Lang, Chẩn Lang, Hoan Lang, Chiêm
Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Khốc Lang, Tán Lang, Minh
Lang, Sái Lang, Thôi Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Tảo Lang,
Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Thế Lang, Tường Lang, Tróc Lang, Các
Lang, Triêm Lang, Cật Lang, Kiềm Lang, Trưởng Lang, Đỉnh Lang, Tẩm Lang, Thai
Lang, Triệu Lang, Ích Lang
50 người con theo mẹ lên núi làm Sơn tinh:
Xuân
Lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Võ Lang, Lệnh Lang, Tịnh Lang, Hắc Lang,
Quản Lang, Cao Lang, Tế Lang, Thỉnh Lang, Mã Lang, Thiệu Lang, Khang Lang, Chỉnh
Lang, Khiêu Lang, Miên Lang, Chiêu Lang, Yêu Lang, Thiếp Lang, Phái Lang, Tài
Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Nhuận Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm
Lang, Tái Lang, Huyền Lang, Tào Lang, Tuấn Lang, Tỉnh Lang, Sâm Lang, Biện
Lang, Triêu Lang, Quán Lang, Canh Lang, Ốc Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt
Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Lý Lang.
Lên núi xuống sông khi có việc thì cùng gọi
nhau.
Vương tên là Hương Lang, tức tôn hiệu là Tản
Viên Sơn Tam Vị Đại vương, là người anh cả của 50 đức thánh, sau là Tản Viên
Sơn Thánh Thượng đẳng thần Quốc chủ Đại vương. Mua đất đai rừng núi với 112.300
quan tiền ở thôn Bùi Cốc, Mang Bội. Một núi có 4 vị, đất theo 8 cửa, cao 12.300
trượng, rộng 198.600 trượng. Đông giáp Ma Nghĩa, Thạch Thất; Nam giáp Mỹ Lương,
Kim Bảng, Chương Đức; Tây giáp Thanh Xuyên; Bắc giáp Bất Bạt. Mặt tiền hướng
chính Tây.
Phía Tây có Đại Giang Tả kiên Ma Lang Sơn
thần, tôn xưng là Đồng Đô và Ma Lộ Sơn thần, gọi là Đồng Đôi. Thần cánh phải
là Thanh Non Sơn thần, gọi là Đồng Lang. Thần cánh trái trấn ở hướng Tây
nam. Thần cánh phải trấn ở hướng Tây Bắc. Thần Phi Hậu Cung Bà Liệt Sơn, gọi là
Bạch Y Thần nữ, ngự ở lầu động rừng núi, gọi là Đồng Long, trấn ở chân núi men
theo sông.
Các vị thần nguyên là dân giữ lệ di đến của
12 làng: làng Lăng Sương, làng Mông Hoá, làng An Lãng, làng An Đức, làng Lang
Phong, làng Lang Phao, làng Thầm Bội, làng
Thủ Pháp, làng Trung Độ, làng Kỳ Cốc, làng Ly Trúc. Cùng nhau chung đất
đai, hương khói. Các ngày tiết giỗ kỵ theo phong tục trong vùng giao cho làng
giữ lệ Lăng Sương và Thủ Pháp thờ phụng các cung lớn thượng đẳng, để yên mạch
nước, mưa gió đủ đầy.
Hoàng triều nước ta niên hiệu Bảo Thái năm
thứ 6 ngày 15 tháng 9 có đôi câu đối:
Cảnh
chiêm thanh u tiên tích bí
Vọng
long kiều nhạc thánh uy chương.
Ngọc
phả cổ chép về một vị đại vươnng công thần triều Tiền Lý Nam Đế (chi Khảm, bộ thủy thần một vị thượng đẳng).
Chính bản bộ Lễ quốc triều
Nước ta khởi vận trời Nam, núi sông phân
ngang theo Dực Chẩn. Nước Bắc ban đầu được phong thẳng hướng sao Đẩu Ngưu mà
phân chia. từ Kinh Dương Vương triều Hùng tuân mệnh của vua cha phân phong làm
tông phái đế vương phương Nam. Đất đẹp Hoan Châu dựng lập kinh đô. Nơi thế núi
mạnh Nghĩa Lĩnh trùng tu điện miếu. Truyền nước đời tiếp theo xưng là Lạc Long
Quân, lấy tiên nữ Động Đình, sống ở trên đầu núi Nghĩa Lĩnh. Mây lành năm sắc rực
rỡ. Âu Cơ từ đó có mang, đến khi sinh sinh được một bầu trăm trứng, nở ra điềm
trăm con trai, đều là những anh hùng vượt thế, đức độ hơn người. Đến khi trưởng
thành Vua bèn kiến phong hầu, lập bình phong, chia trong nước thành 15 bộ.
Khi ấy Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
-
Ta là giống rồng, nàng lại là
dòng tiên. Tuy âm dương ngũ hành hợp lại mà có con. Nhưng chủng loại khác nhau,
nước lửa xung khắc. Không thể chung sống.
Nhân đó mà chia biệt, phân 50 người con
theo cha về biển làm thủy thần, chia trị các đầu sông góc biển. 50 người con
theo mẹ lên núi làm sơn thần, chia trị
các bãi trên núi. Đương khi có việc gọi nhau, tất cùng đến giúp đỡ không
tạo họa. Do đó sau này nhà họ Hùng có
các bách thần sông núi, thường có thể đầu thai xuất thế vào các gia đình người
dân làm con để giúp nước giúp dân. Nhà nào có phúc tất sẽ gặp được.
Lại nói, đến khi nhà họ Hùng về cuối, ý trời
đã dứt, trải qua các đời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy, cho tới
khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lý, Trần, Lê kế nổi, khai mở cơ đồ. Từ đó mạch thống
quốc gia đến nay lâu dài vậy.
Nước Việt xưa triều Tiền Lý Nam Đế (đế họ
Lý tên Bí) người Long Hưng, Thái Bình, ở ngôi 11 năm. Khi đó ở thành Phong Châu
có một nhà họ Đỗ. Ông Đỗ thuộc gia đình có truyền thống ngồn gốc, là vị quan có
tiếng của triều Lương. Chính thất là bà Vương Thị Tín. Vợ chồng ông tuổi đã
cao, sinh đẻ khó khăn hiếm muộn nên không vui. Ông bèn xin từ quan trả chức.
Vua Lương đồng ý, ban cho áo mũ, châu ngọc, xe ngựa. Ông làm lễ bái tạ, rồi trở
về quê hương, chuyên làm nghề y để cứu nhân độ thế, ra sức tạo phúc, cố gắng
làm điều nhân đức, tạo tượng đúc chuông, sửa chùa xây cầu, âm thầm làm các việc
thiện, đã cảm động đến trời cao.
Một hôm, phu nhân nằm mơ thấy mặt trăng chiếu
qua khe cửa sổ ánh sáng rạng rỡ. Từ đó cảm động mà có thai. Đến kỳ sinh được một
người con gái, mắt phượng mày ngài, phong tư yểu điệu, khác xa người thường. Vợ
chồng ông vui mừng vi trời đã cho thành nguyện, bèn đặt tên là Nguyệt Tuần. Đến
khi trưởng thành tính tình đoan trang, lời nói uyển nhã, má phấn môi hồng như vạn
điểm sóng thu, mắt Thuấn mày Nghiêu, mười phần xuân sắc. Cung thiềm còn khóa.
Nhụy ngọc đương thì. Mối lương duyên chưa sớm định ước.
Nàng tuổi 18 thì cha mẹ đều mất. Đến khi an
táng xong, một hôm nàng nghe nói ở trang Quyển Sơn (tên xưa là Canh Dịch) thuộc
huyện Kim Bảng có sông Châu giang, trên núi Biệt có cỏ thi quý, cùng với núi
Tuyết trên dãy Hương Tích có nhiều đá rất cao, mà lại xanh rậm, u vắng, sinh ra
nhiều dị vật. Nàng cùng với một số thị nữ xuống thuyền theo dòng sông Hát xuôi
xuống, dạo xem sông núi. Đến khi về tới trang Hữu Vĩnh ở đầu bến sông thì thấy
xa xa có một ngôi đền thiêng trên núi, bèn đứng lên vọng bái trong thuyền.
Đến khi quây màn để tắm bỗng thấy một con
giao long tiến lại, trườn quấn quanh thân. Nàng sợ hãi chạy vào trong thuyền,
chạy ngược dòng về nhà. Từ đó cảm động mà có thai. Khi ấy (năm Giáp Thìn mồng
10 tháng 8) ban đêm thấy có một áng mây năm sắc, tròn như hình lọng, che phía
trên trước sân, trùm hết mặt đất. Trong một lúc sinh được một người con trai, mặt
mũi to lớn, mày thanh mắt tú, tư chất kỳ lạ, khác xa người thường. Lên 3 tuổi
thì biết nói, biết lễ nghĩa, thường hay biết học kính nhường, nghe lời biết suy
xét. Bèn đặt tên là Xung Lang.
Ngày qua tháng lại, Ngài tuổi lên 6. Cha mẹ
không bệnh mà mất. Đến khi Ngài lên 10 tuổi học hành thông minh, văn chương dài
đẹp, ý tứ sâu sắc, có học sâu của Châu Trình, có khả năng của Âu Tô. Tài thơ
sánh với Lý Đỗ, thích học cung tên, hay đọc binh thư, văn võ toàn tài, trở
thành một người con có trách nhiệm với gia đình.
Lại nói, khi ấy Đế ban đầu làm quan triều
Lương, sau loạn thì bỏ về. Khí đó các quan thú lệnh hà khắc. Giặc Lâm Ấp đến quấy
biên cương. Bốn phương trộm cướp nổi lên. Đế bèn khởi binh đánh đuổi. Lại nghe
tiếng Ngài có tài văn võ, trí dũng hơn người bèn sai sứ giả đến mang chiếu mời
Ngài. Ngài tuân chiếu đến bệ kiến. Đế thấy là kỳ tài, trên thông thiên văn, dưới
tường địa lý, không có việc gì không biết, không có vật gì không hiểu. Vua lấy
lạ mà hỏi nguyên nhân là như thế nào? Ngài mới tâu rằng:
-
Thần là Đệ nhất thủy quan, tuân
chiếu chỉ Thiên đình giáng sinh xuất thế, giúp vua giúp nước.
Vua nghe vậy rất vui mừng nói:
-
Lòng trời muốn giúp vậy.
Bèn mở tiệc lớn, tiến phong Ngài làm Tổng
thống quân vụ Thuỷ đạo Thượng tướng quân, dẫn quân đi trước để chấn hưng quân
thanh và để phòng ngừa bất trắc. Thế là Ngài bái nhận quân thủy bộ cùng với Đế
tiến quân đường đường ra đi. Bắc đuổi Tiêu tư, Nam dẹp Lâm Ấp, Chiêm Thành.
Thiên hạ yên định. Đế lên ngôi kỷ nguyên Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng
đô ở thành Long Biên.
Khi đó giặc đã được dẹp sạch. Ngài quay trở
về cung đền ở trang Hữu Vĩnh làm lễ bái yết. Cho gọi các phụ lão của trang đến
hỏi cho rõ ràng. Phụ lão tâu rằng:
-
Trang của chúng thần trước đây
phụng thờ một vị Thủy thần, nước cầu dân cúng rất nhiều linh thiêng tỏ rõ. Đến
hơn mười năm trước có một chiếc thuyền rồng của một vị công chúa cùng các thị nữ
đi qua, dừng lại tắm ở đây. Từ đó không thấy linh nghiệm nữ.
Ngài cười rằng:
-
Đó chính là mẹ đẻ của ta.
Thế là phụ lão trang Hữu Vĩnh rất sợ hãi,
bèn làm lễ xin được làm gia thần. Ngài đồng ý. Hôm sau thấy sứ giả mang chiếu
thư đến, trong đó nói giặc đã dẹp xong, vua ban chiếu cho Ngài về triều dự tiệc,
gia phong tước lộc những người có công. Ngài tuân chiếu xa giá về đến trang
Trinh Tiết. Phụ lão ở đó cũng đến đón yết. Vì Ngài vốn trước là thần xuất thế,
người dân thấm ơn không bị họa do hạn hán. Ngài bèn dừng xem sông núi. Thấy trời
đất đẹp đẽ, trong ngoài thì bằng phẳng, trái phải có gò bờ, sông nước chảy quanh,
nước lớn tràn trề. Thấy cảnh có tình bèn truyền lập hành cung, giết mổ trâu lợn,
lập đàn cáo tế trời đất nước trăm thần. Xong thì gọi các thần tử trong trang
khu đến ăn uống. bỗng nhiên ở đó thấy trên không có tiếng thần rằng:
Gia gia thiên hạ dĩ quy thần
Hà tất khu khu tác thế nhân
Kim triệu Xung Lang hồi thuỷ phủ
Đồng quy vân lý hội quân thần.
Phút chốc trời đất trở nên mờ mịt, gió lớn
nổi lên. Ban ngày mà như đêm. Chốc lát thì thấy một đám mây vàng chuyển thành
năm sắc, từ trên trời hạ thẳng xuống nơi Ngài ngự. Lại thấy thân của Ngài phát
hào quang rực rỡ, theo mây cưỡi gió bay ra ngoài bến sông. Sau đó giây lát thì
đám mù tan đi, trời trở nên trong sáng. Són nổi dồn dập. Thấy các loài thủy tộc
xuất hiện nghênh đón Ngài trở về đầu trang Hữu Vĩnh. Đến chỗ nhánh sông thấy
sóng gió trở nên yên. Tức khi đó Ngài đã hóa mất (là ngày mồng 10 tháng 12). Khi ấy nhân dân, gia thần, quân sĩ đều sợ
hãi, bèn làm biểu tâu lên vua. Vua lệnh cho đình thần đến làm lễ.
Tế xong lại cho trang Hữu Vĩnh được miễn
quân lương phục dịch, sai sứ tuân sắc phong Thượng đẳng.
Phong Nam thiên
Linh ứng tối linh Thượng đẳng tôn thần.
Truy tặng phong thánh
mẫu là Trinh tĩnh Đoan trang Đỗ Quý phi Công chúa.
Đến triều Đinh Tiên Hoàng (Đế họ Đinh, tên Bộ Lĩnh) khởi binh ở Hoa
Lư, bình định 12 sứ quân, dẫn quân tiến về thành Thăng Long (xưa gọi là Long Biên), tiến đến bến sông
đầu trang Hữu Vĩnh, huyện Hoài An, phủ Ứng thiên (sau đổi là Ứng Hòa). Bỗng thấy khi đó trời đất u ám, gió lớn nổi
lên, sóng cả dập dồn, ban ngày như đêm. Đế bèn vào trong đền làm lễ cầu đảo.
Giây lát trời quang tạnh, sóng gió ngừng lặng. Đếm đó Đế ở trong đền, đến cuối
canh ba Đế nằm mơ thấy một lão ông quần áo chỉnh tề, hình dung cổ quái, từ
trong đền đi ra, tự xưng là quan thủy thần (tên
là Quảng Xung), nói rằng:
-
Trời đất an bài, các nơi đã định,
có vua tất có bề tôi. Tôi tuân chiếu của thiên đình muốn đến gặp, tự xin âm phù
dẹp giặc. Không quá một năm thiên hạ tất sẽ quy về một mối, xin chớ lo.
Dứt lời thì hết mộng (khi đó là mồng 6 tháng 12). Đinh Tiên Hoàng tỉnh lại biết là mộng
thần. Sáng hôm đó làm lễ bái tạ, lấy ở trong trang những người cường tráng được
hơn 10 người của các gia thần thạo sông nước. Ngay hôm đó dẫn quân đi đánh dẹp.
Từ đó mỗi trận đều thắng. Đến khi dẹp yên được 12 sứ quân nghĩ đều do lòng trời
giúp đỡ, thần linh hiện ứng âm phù, bèn sai sứ tuân sắc phong thượng đẳng. Tặng
phong Quảng Xung Linh tế Thông cảm Dực thánh Hồng ân Uy liệt Hiển hữu Trang
dũng Ninh quốc Thượng đẳng thần. Cùng với nước nhà hưởng lành, mãi giữ như vậy.
Kính thay!
Ban thêm cho trang Hữu Vĩnh 5 nén vàng để
mua nhiều ruộng đất và sửa chữa đền miếu làm nơi phụng thờ. Mỗi năm ngày 11
tháng Giêng Đinh Hoàng lại xa giá đến làm lễ, liệt vào lệ để biểu dương sự linh
nghiệm của thần. Từ đó trở thành lệ thường.
Lại nói, từ đó nước cầu dân cúng đều có
linh ứng, thường có giúp nước cứu dân, các đời đế vương đều có sắc phong mĩ tự
cho vị Thượng đẳng thần. Đến triều Trần Nhân Tông giặc Nguyên đến xâm phạm,
kinh thành bị vây hãm. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh chống quân Nguyên, tiến quân đến
huyện Hoài An thì gặp quân Nguyên theo đường thủy đánh đến. Hưng Đạo bèn vào đền
làm lễ cầu đảo, xin được âm phù giúp. Sáng hôm sau dẫn quân ra đánh, giặc
Nguyên quả nhiên thua. Đến khi được thiên hạ, ông Tuấn tâu việc này lên. Vua sắc
phong mĩ tự: một vị là Vũ phấn Phong vân Đãng khấu Hộ quốc Linh ứng Thượng đẳng
thần.
Đến thời Hậu Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc
Minh, đuổi Mộc Thạch, Liễu Thăng, có được thiên hạ. Thái Tổ bèn bao phong mĩ tự:
một vị là Tế thế Hộ quốc Thuần hoá Trợ dân Linh phù Thượng đẳng thần, lấy nơi
hành cung chốn cũ làm chỗ phụng thờ xuân thu, bốn mùa hương khói, vạn đại không
ngừng, cùng trời đất còn mãi như vậy. Tốt thay!
Vâng khai các lễ sinh hóa cùng các chữ húy
cấm ba chữ Quảng Xung Lang, cho trang Hữu Vĩnh là trang hộ nhi, các trang khu
thần tử khác cùng phụng thờ.
Ngày sinh thần chính lệ là ngày 10 tháng 8.
Lễ dùng trên chay bàn, phẩm quả, dưới xôi lợn rượu. Ca xướng.
Ngày hóa thần chính lệ là 11 tháng 12. Lễ
dùng trên chay bàn, phẩm quả, bánh thanh khiết các mầu, dưới tùy nghi mà làm lễ.
Chính lệ ngày khánh hạ là mồng 6 tháng 5.
Dùng lễ tùy theo.
Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất ngày tốt đầu
xuân, Hàn lâm Lễ viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn bản
chính.
Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 6 giữa
đông ngày tốt, nội các bộ Lại tuân theo bản cũ vâng chép.
No comments:
Post a Comment