Đình làng Yên Phú |
Làng Yên Phú xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Nội có ngôi chùa khá đặc biệt, là nơi vị sư bà Phương Dung đi tu vào thời Hai Bà Trưng. Theo thần tích của làng thì bà Phương Dung khi đang tu hành ở chùa Yên Phú đã nhặt được 2 quả trứng bên sông Kim Ngưu, đem về đã nở ra 2 vị thủy thần mặt người thân cá, tên là Trung Vũ và Đài Liệu. Sau đó cả 3 mẹ con tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Thắng giặc, hai vị thần về nơi sinh dựng lại miếu đền và khi đó cảm hứng đọc một bài thơ:
Tự cổ đế vương ức triệu dân
Quy thần tất tự điến tinh thần
Thử truyền vị biện Chân tương Ảo
Hồi tưởng Sơn danh Phật tức Chân.
Trong lời của thần này đặc biệt có câu cuối: "Hồi tưởng Sơn danh Phật tức Chân" khá là khó hiểu. "Sơn danh" là gì mà khi nhớ đến lại biết "Phật là thật"?
"Xưa Tiền Hoàng đế Thánh tổ Cõi lớn trời Nam, Hùng Vương Sơn nguyên, đã gây dựng cơ đồ, thủy tổ Việt Nam, mở nước Cổ Việt Hùng Thị, mười tám đời thánh vương ngự trị Cõi lớn trời Nam, mở mang hùng đồ nước Việt, nước biếc một dòng, bắt đầu vận vua sáng đế thánh. Núi xanh vạn dặm, lập nền đô thành điện báu, mở vật giúp người, thống trị mười lăm bộ, giữ thế mạnh trước phiên thần, nối tiếp phát huy cõi đất lớn thành Viêm Hồng..."
Nguyên văn chữ Nho là: Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh tổ Nam Thiên Đại bảo Tiền Hoàng đế.
Tên gọi "Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ" cũng được ghi trong bức tranh gỗ sơn son thiếp vàng lưu ở đình Bình Đà mà đã được công nhận là bảo vật quốc gia. Tên gọi này còn gặp trong nhiều các văn bản thần phả thần tích khác.
Cụm từ "Sơn Nguyên" trước nay chưa ai hiểu. Nay, khi nhận ra từ "Sơn" chính là chỉ các vị thánh tổ Hùng Vương thì cái tên này đúng phải đọc là:
Hùng Vương Sơn - Nguyên Thánh tổ
Cách gọi "Hùng Vương Sơn" cũng tương tự như "Tản Viên Sơn", chỉ vị tổ Hùng Vương hay thánh Tản Viên. "Sơn" ở đây hoàn toàn không phải là quả núi như vẫn nghĩ.
Sơn triều chính là tên gọi của thời khởi đầu, giai đoạn thánh tổ Hùng Vương, bắt đầu từ "Nguyên thánh tổ" Đế Minh, qua 2 vị Viễn Sơn, Ất Sơn và kết thúc ở Tản Viên Sơn, để chuyển qua giai đoạn Kinh triều của Lạc Long Quân.
Hai vị thủy thần giáng sinh thời Hai Bà Trưng mà hồi tưởng lại thì chỉ có thể là về thời Hùng Vương. Ý của câu thơ cuối này cho biết: vào thời Hùng Vương thì đã có sự việc Phật giáng thế ở trời Nam.
Phật thời Hùng Vương. Tranh sứ ở Bảo tàng đền Hùng. |
Sau đó Hùng Huy Vương "nhất thành khả cách", tại ngôi chùa thiêng này đã gặp một Lão ông nói:
- Ta là thần miền Tây Vực, cư trú lâu ngày ở biển Giác, chu du trên thuyền Bát Nhã, không nhiễm lòng trần, tẩy niềm tục Niết Bàn. Nay thấy nơi đây có lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây.
Trong chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng, một khối ngọc trời, đem trao cho Vua. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra sáng loá cả núi rừng. Lão ông bay lên trời mà đi. Vua mới biết đó là đức Phật trên trời giáng ngự.
Hùng Vương đã dùng 2 bảo bối mà Phật ban chế thành 2 bảo vật trấn quốc là Thiên Linh kiếm và Vương Linh ấn.
Dịch nghĩa bài thơ thần ở chùa Yên Phú:
Từ cổ đế vương muôn triệu dân,
Theo thần tất phải giữ tinh thần.
Sự truyền không dễ phân Chân, Ảo
Nhớ lại Sơn triều Phật chính Chân.
No comments:
Post a Comment