Monday, August 10, 2020

Thần tích thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ (Thiên Cổ miếu)

 

Phả lục về vị Đại vương Đô Chấu thời Hùng Vương

Xưa nước Việt có Thánh tổ trời Nam khởi dựng cơ đồ, trải xem chỗ lợi của núi sông hình thế mà kiến lập thành đô ở thắng địa Hoan Châu, nơi đất Nghĩa Lĩnh trùng tu cung điện, cha truyền con nối hơn hai ngàn năm. Trăm họ vui hát, Thiên hạ thái bình.

Thời tiên tổ ba đời của Đại vương là người Mộ Trạch, Hải Dương, họ Vũ, thơ văn xử thế, hiếu thảo giữ nhà. Đến tổ ba đời gặp bất hạnh, cha mẹ mất sớm, gia sản trống không, bữa đực bữa cái, trông vào vay mượn. Vợ chồng cùng nói rằng:

-       Nghèo nàn như thế này, không có cách sinh nhai, biết lấy gì để bớt đi nỗi khổ này?

Do vậy gói ghém chút tư trang hành lý sơ sài, tìm tới Đông Ngạn, Kinh Bắc, nhà của người bạn thân họ Nguyễn, cũng không thể chu cấp được. Nên bèn đi đến cung thành Việt Trì, trú ở bên ngoài thành.

Nhân xem phong thủy để cầu việc dạy học làm kế sống qua ngày. Đến trại Hương Lan, thấy núi hình chữ Vương, các nhánh sông tụ ở trước mặt, tuy là một mạch đất nhỏ mà tưởng như là ngọn núi ngọc có dư khí. Bèn chọn ở chỗ đó. Hàng ngày lấy việc dạy học cho trẻ con làm nghề nghiệp. Ở được quãng ba năm thì người dân trong thôn cho chỗ đó để làm nơi dạy học. Vợ chồng chăm chỉ chuyên cần. Ngày tháng qua nhanh, sinh hạ được một người con trai tên là Thê, tức là vị tổ đời thứ hai vậy.

Đến khi trưởng thành lại tìm về người bạn cũ ở Đông Ngạn, cưới con gái thứ của ông Nguyễn tên là Thục làm vợ, rồi trở về thôn nơi dạy học. Ông theo sự cấy cày, ra sức làm việc nhân nghĩa, gia tư trở nên đầy đủ, làm trưởng thôn dân.

Năm Đinh Tỵ tháng tư bà Nguyễn đến chùa Việt Trì hành hương làm lễ Phật, lúc về đến đêm nằm mộng thấy một ngư phủ thân hình to lớn, cầm lên núi một con cá ba đuôi dài hơn một thước, đến trước sân mà dâng cho bà Nguyễn lấy để ăn. Mùi vị thật hấp dẫn. Bà Nguyễn hỏi là vật gì. Ngư phủ nói rằng đây là đồ ăn rất tốt. Rồi người đó bỗng biến mất. Bà Nguyễn tỉnh dậy mới viết là một giấc mộng Kê Vàng.

Bà đem kể với Ông. Ông cho đó tất có điềm tốt lành. Bà Nguyễn từ đó có mang, đến năm Mậu Ngọ ngày 11 tháng 1 sinh được một người con trai. Ông nhân giấc mộng dâng cá cho rằng đó là ứng điềm quỷ thần nên đặt tên là Rô (ngày lệ của vị trưởng là tháng Giêng từ mồng 9 đến 12).

Sau đó 2 năm, bà Nguyễn lại sinh đôi hai người con trai. Ông vô cùng vui mừng thấy rằng đúng là thần đã ban cho. Đến năm Quý Dậu ngày 2 tháng 2, Ông cùng bà Nguyễn không bệnh mà mất. Ba người con cùng với các môn đệ thôn dân làm lễ chôn cất. Sau ba năm tang lễ hoàn tất (ngày lệ giỗ ông bà là mồng 2 tháng 2).

Truyền kể rằng ba anh em có tài sức dũng mãnh, lại kiêm cả việc tập bắn cung. Còn người anh hay xuống nước hàng ngày lấy việc đánh cá làm vui.

Một ngày vào cuối tiết xuân, vạn cảnh đều yên hòa, Duệ Vương lệnh cho thuyền đi trên sông Bạch Hạc để ngắm xem cá nước. Chiêng kêu hòa với tiếng trống, lọng vàng thuyền rồng dàn khắp dọc ngang trên sông nước, đan kết thành vân, trên dưới các đầu đường tấp nập vẻ đi lại, trông như đám hỷ chật nghẽn bên bến sông Lô.

Các anh em bèn vui mừng đến xem, trông thấy nghi vệ thái bình thì kêu lên:

-       Than ôi! Đại trượng phu thì phải như vậy.

Duệ Vương nghe thấy lấy làm lạ liền lệnh triệu kiến. Thấy hình dạng trang nghiêm, thân thể cường tráng đó, Vua hỏi tên họ. Các anh em cứ theo thật mà trả lời.

Nhân đó Vua lệnh lấy tên là Chàng Chấu để gọi (ngay hôm đó quyết cho các Chàng Chấu theo sau kiệu làm tùy tùng). Được vài tháng cử chỉ trở nên thân mật, mọi việc đều chu toàn. Vua lấy làm lạ, cho làm Đô sĩ. Một năm trong ba lần đi hộ giá thị tòng, thấm sâu thánh trạch ưu ái thiên ân, hương lửa cùng có duyên vậy.

Đến lúc lòng Trời có hạn, cơ nhà Hùng kết thúc. Duệ Vương tự vì giàu mạnh mà không tu chính đức, lấy ấn kiếm làm đồ giữ nước, lấy tửu sắc làm nền móng cho việc thủ thành, việc võ bị phế buông. Ngày đêm yến ẩm ở trong cung đình.

Thục Vương thừa cơ đến xâm lấn. Tướng sĩ đều cùng tử nạn. Thư từ biên thùy báo gấp mà Vua không nghe. Đến khi quân Thục đã đến gần, Vua còn đang say chưa tỉnh. Tướng sĩ trong nước hàng Thục nên cơ đồ họ Hùng đã hết. Than ôi, không có điều gì để nói về sự này nữa. Bể dâu đổi thay. Thế cuộc xoay vần. Thế này cũng đã không còn như vậy được nữa.

Các anh em từ đó dắt díu nhau về quê cũ, rời bỏ khăn mũ, phú quý rũ trần. Lấy ngày yên bình với nơi sông nước. Núi rành rành, nước rào rào, nhớ đến ngòi nước nhỏ trong xanh. Bèn chuyên việc đánh cá uống rượu, thực là những người nhàn hạ bậc nhất, không quan tâm đến thế sự.

Được năm sáu tháng khi Thục Vương lấy được nước, cho xây thành ở Việt Trì, rộng hơn ngàn trượng, cuốn quanh như vỏ ốc, tên gọi là Loa thành. Cứ xây lại đổ. Thục Vương lệnh tìm người để làm phu. Theo lệnh chỉ thi hành, sai quan tìm bắt các anh em. Các anh em đều nói rằng:

-       Chúng ta đều đã nhận ân sâu của Hùng Vương, chưa kịp báo đáp. Nay còn có tấm thân lại bắt theo triều khác. Cam tâm để người sau sai khiến được sao?

Liền cùng nhau trốn ra nơi thường câu cá, rập đầu trước trời mà nói:

-       Trời xanh trăng sáng, núi cao nước trong, các thánh họ Hùng nguyện giám cho lòng thành.

Khi đó là ngày 10 tháng 10. Bèn ôm đá cùng nhau nhảy xuống sông mà chết. Hôm sau người dân trong thôn trang vội vớt di hài mà an táng. Bỗng thấy mối đùn thành một gò đất lớn (ngày 9 đến 12 tháng 10 là ngày lệ hóa thần). Gò đất đó tức là khu Đồng Bò.

Thục Vương nghe việc này mới than rằng:

-       Các quan tướng của Duệ Vương đều theo sự sai khiến của ta. Chỉ có các Đô sĩ lại có nhân phẩm cao, chịu ơn vua mà cùng quyên sinh vì nghĩa như vậy.

Liền trong ngày lệnh lấy tên gọi trước đây mà Duệ Vương đã đặt để phong làm Đại vương. Sai người trong trang lập miếu để phụng thờ. Qua các thời họ Triệu, Tiền Lý, Hậu Lý, Đinh, Lê, Lý, Trần đều cảm lòng trung mà có mệnh phong cho sáng tỏ.

Đệ nhất vị Linh Lang Chàng Chấu đại vương;

Đệ nhị vị Linh Lang Chàng Chấu đại vương;

Đệ tam vị Linh Lang Chàng Chấu đại vương;

Trang Hương Lan phụng thờ.

Hồng Phúc năm thứ 2, ngày tốt cuối xuân, Đông các đại học sĩ họ Nguyễn phụng soạn.

Tự Đức năm thứ 1, ngày tốt giữa thu, Học trò bản trang họ Nguyễn phụng viết./.

 

Tháng 8 năm 2020, Quản trị viên Nhóm Đền miếu Việt, Thạc sĩ Nguyễn Đức Tố Lưu dịch nghĩa.

 

No comments:

Post a Comment