Trích dịch từ bản thần tích lưu tại đền Tây thôn Thượng xã Trung Đông, Trực Ninh, Nam Định.
… Lại nói, từ đó về sau, trải qua Nhân Tông, Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông. Đến Huệ Tông không có con trai kế tự bèn nhường ngôi cho con gái thứ là tên là Công chúa Phật Kim. Phật Kim sau liền cải hiệu là Chiêu Hoàng. Chẳng bao lâu Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Thái Tông. Đang khi đó nước Việt ra ở thôn Thượng Lỗi xã Đông Mặc huyện Mỹ Lộc phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam có một nhà họ Trần tên là Phác, lấy bà Cao Thị Mỹ thôn Hạ xã Xối Đông huyện Tây Chân làm vợ. Gia thế Trần công vốn làm quan lớn ở triều Lý. Tới ông Phác thì gia cảnh bần bách, không có kế sinh nhai. Vợ chồng bèn gói ghém gia tài trở về quê vợ cùng xin phụ lão cho được ở lại đó để dạy dỗ con trẻ. Nhân dân vui mừng đều đồng ý nhận, tạo một học đường mời ông về ở đó, dạy dỗ sĩ tử. Qua vài năm trong quận huyện nghe tiếng, cũng đều gửi con đến nhập học. Từ đó gia đình ông trở nên đầy đủ hơn. Một hôm vợ chồng nói với nhau rằng:
- Ta tuổi đã ngoài ba mươi mà điềm khăn nỏ còn chưa thấy ở cửa huyền. Chi bằng nay hãy tạo phúc gây công, biết đâu ngày nào đó sẽ được trùm ơn, cũng là để thỏa nguyện bình sinh vậy. Sách nói rằng “tích thiện sẽ gặp được thiện, cầu nhân từ sẽ được đắc lòng nhân”. Sao cứ phải khư khư giữ lấy tài vật cho được vậy.
Thế là bèn phát tán hết gia sản để giúp đỡ người nghèo, chu cấp cho người thiếu, đem tài đem lực để ban phát thập phương, xây dựng một ngôi chùa ở trong dân, tô vẽ tượng Phật. Ngày ngày tiến cúng hương hoa. Thời thời tụng niệm chân kinh. Hễ là cần giúp người độ vật đều cố hết sức mà làm. Khi đó trời nóng bức, bà Cao Thị đi ra tắm gội ở bến sông trở về. Đến đêm hôm đó mộng thấy một thần tướng khoác áo bào màu hồng, đeo thắt lưng châu ngọc, thân cưỡi giao long, hai tay ôm một đứa nhỏ đẹp đẽ, đường đường tiến đến trước mặt nàng. Đang trong mộng bà rất kinh sợ, hô gấp Trần công cùng đến xúm bái. Người đó đưa đứa trẻ cho bà Cao Thị nói rằng:
- Nhà họ Trần phúc hậu, trời đã biết đến. Ta vâng thiên mệnh đem con của Long cung đến thác nhập làm con nhà họ Trần để sau giúp nước triều Trần. Cẩn thận, cẩn thận. Chớ lộ, chớ lộ.
Khi đó bà ôm được đứa trẻ, chưa kịp làm lễ bái yết, trong lòng rất vui mừng thì đột nhiên tỉnh giấc, mới biết là điềm lành, kể lại cho Trần công biết. Tối hôm đó Trần công cũng nằm mộng thấy có một người tặng cho một bài thơ rằng:
Trời định thủy thần cho họ Trần
Vạn cổ núi sông để tiếng thơm
Phúc dày biết tạo, Trời ban phúc
Thấm ơn hưởng lộc tới muôn năm.
Đến khi ông nghe bà nói, liên tưởng đến giấc mộng, cho rằng đây tất là điềm mộng lành. Từ đó vợ chồng uyên ương chung gối, loan phượng thành bầy. Chẳng bao lâu sau quả nhiên thấy phu nhân có mang thai. Đến kỳ mãn nguyệt sinh hạ một người con trai (khi đó là mùng 2 tháng Mười hai), diện mạo đẹp đẽ, quả giống như hình đứa trẻ trong mộng. Nhân sinh ở nơi chùa nên đặt tên là ông Phạm. Ngày qua tháng lại trải đã ba năm đã biết đi biết nói. Ăn như gió, đi như mưa. Thường thường ra bến sông rẽ nước mà đi xuống. Qua 7 ngày mới trở về dương thế. Người người thấy đều sợ hãi, gọi là thủy thần xuất thế. Đến năm 12 tuổi không học mà tự biết. Phàm trên từ thiên văn, dưới tới địa lý, không có việc gì là không biết, không có thứ gì là không hiểu, lại thạo cung nỏ, giỏi đọc xem hết binh thư. Bạn bè ai cũng sợ phục. Từ đó tiếng vang xa gần đều biết tới tên.
Khi tên tuổi vang đến triều đình, Thái Tông liền sai sứ thần về thôn Hạ xã Xối Đông gọi Trần công vào triều. Công vâng mệnh vào chầu, dẫn theo người con là ông Phạm cùng vào bái yết Đế. Thái Tông thấy ông Phạm có thể mạo khác thường, thực đúng là bậc tuất kiệt. Vua hỏi về tài năng, ông Phạm ứng đối làm Vua rất hài lòng. Ngay hôm đó Vua bái ông Phạm làm Ngự sử Trung thừa. Nhân vì ông Phác là người có tài, lại là người cùng tông phái nhà Trần nên bái ông Phác là Phủ doãn phủ Thiên Trường. Tất cả binh lương, tô thuế đều cho thuộc quản (ông Phác sau hóa được phong là Từ nhân Tập phúc Dao huống Đại vương, hưởng cúng ở thôn Hạ xã Xối Đông, do có bản chép riêng cho này này nên không chép chung vào bản này).
Lại nói, khi đó thôn Thượng xã Xối Đông có một nhà thi thư xử thế, hiếu đễ truyền gia họ Bùi tên Chấn, vợ là người thôn Trung cùng xã tên Nguyễn Thị Ngoạn. Vợ chầm đẹp duyên cầm sắt, uyên ương cùng hợp, lại thường có lòng tạo phúc, cố gắng làm điều nhân, không hề có tới nửa điểm mưa hại người, một hào tư lợi cũng không có lòng tham. Người người ở địa phương đều gọi là một gia đình tốt đẹp. Một bữa vợ chồng ông nhàn rỗi ngồi chơi uống rượu vui vẻ. Khi rượu đã thấm, phu nhân dựa lan can mơ màng thiếp đi, thấy có hai con gấu mờ mờ ảo ảo nhảy múa trước sân, phút chốc hóa thành hai con chim yến trắng. Phu nhân nắm bắt được hai con bạch yến thì bỗng tỉnh lại. Từ đó trong thân có mang. Mang thai được 10 tháng sinh hạ một bầu, nở ra hai người con trai (ngày mùng 10 tháng Mười hai), đều là vẻ rồng hàm én, mắt phượng mày ngài, khác xa với người thường. Cha mẹ rất vui mừng đặt tên người con lớn là ông Khiết, người con thứ là ông Tuyết. Xuân sinh hạ trưởng, đã được 6 năm. Cha mẹ gửi nhập học với Hoa Đường tiên sinh. Học được mấy năm văn võ kiêm toàn, thông minh xuất chúng.
Đến năm 15 tuổi cha mẹ thay nhau mất. Hai ông làm lễ chôn cất cha mẹ, hương khói phụng sự như nghi thức. Khi ấy gia tài đều đã hết, sáng vay tối nợ, bữa đực bữa cái, bốn bức gió lùa, vườn không cọng cỏ. Lúc đó anh em nghe tiếng vợ chồng Trần công (tức ông Phác) tích đức làm việc thiện bèn cùng nhau đến thôn Hạ xin nương tựa làm con nuôi của Trần công. Trần công thấy hai người anh em đều là những nam nhi tốt, rất là yêu mến, tình tuy là con nuôi mà thân như con đẻ. Từ đó hai ông (tức là chỉ ông Khiết, ông Tuyết) tìm được nơi nương tựa, không lo đói khát, dốc lòng chăm học. Được mấy năm thì sử sách trăm nhà không chỗ nào không từng xem. Khi ấy Trần công đã 49 tuổi, bỗng nhiên không bệnh mà mất. Vua cho ông Phạm trở về chôn cất cha. Lúc ấy phu nhân Cao Thị lại do thương tâm mà thành bệnh rồi mất. Ông Phạm cùng với ông Khiết, ông Tuyết làm lễ chôn cất. Đến sau ba năm đạo hiếu đã tròn ông Phạm lại trở về triều nhận chức, để hai người em ở lại gìn giữ gia đường.
Lại nói, khi Thái Tông lên ngôi được 33 năm thì nhường ngôi lại cho Thánh Tông. Thánh Tông khi mới lên ngôi hạ chiếu cầu người hiền, lệnh các châu huyện cử những người hiếu liêm, hiền lương, chính trực, có tài văn võ thì lên kinh thành để ứng tuyển. Lúc đó ông Phạm tiến cử hai người em với Vua. Vua thấy hai người có diện mạo khác thường, trong lòng rất mừng nói:
- Trời vì triều ta mà đã sinh người hiền phụ giúp, sao lại gặp được muộn vậy.
Ngay hôm đó bái ông Khiết là Tả bộc xạ, ông Tuyết là Hữu bộc xạ. Nhân việc ông Phạm tiến cử người hiền liền bái ông Phạm là Tấu thư Bác sĩ. Từ đó va ông ở trong triều giữ chức, thiên hạ thanh bình. Đến khi Thánh Tông truyền ngôi cho Nhân Tông, lấy niên hiệu Trùng Hưng. Khi đó Thái tử nước Nguyên là Trấn Nam vương Thoát Hoan cùng đại tướng Hô Mã Nhi, Nguyễn Bá Linh dẫn quân mạnh ba mươi vạn đến xâm chiếm nước ta nhằm cướp lấy nước. Quân thanh chấn động, tiến đến bờ biển. Nhân Tông tập hợp trăm quan định kế đánh dẹp. Khi ấy Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn kiên quyết xin đánh. Trần Phạm, Trương Long, Bùi Khiết, Bùi Tuyết cũng ra sức xin đánh. Vua bèn bái Hưng Đạo Đại vương là Đại Nguyên soái kiêm Chưởng thủy bộ hai quân, nhận năm vạn quân mạnh trấn giữ ở đồn giữa. Lại bái Trần Phạm làm Tả tướng, Trương Long là Hữu tướng, ông Khiết, ông Tuyết làm Điệu bái binh lương cho các lộ. Các ông vâng mệnh nhận quân chia đạo tiến thẳng. Khi đó Hưng Đạo Vương dẫn quân về trang Vạn Kiếp, xây dựng đồn doanh ở trên đất trang Vạn Kiếp. Ông Phạm trấn cứ ở sông Bạch Đằng nối đến sông Lục Đầu, cùng với Hưng Đạo Vương cùng nghênh giặc.
Còn ông Khiết, ông Tuyết cùng Trương Long nhân quân trở về đạo Sơn Nam xây dựng đồn doanh để làm nơi giữ phòng. Khi ấy ba ông nhân quân về xã Xối Đông chia ra lập thành ba đồn. Lúc đó ông Khiết lập một đồn ở thôn Thượng, gọi là đồn Thượng. Ông Tuyết lập một đồn ở thôn Trung, gọi là đồn Trung. Trương Long lập một đồn ở thôn Hạ, gọi là đồn Hạ (sau đổi thôn Hạ thành thôn Phú Gia). Nếu có lập mưu thì các ông tất đều cùng làm với nhau. Trải qua sáu tháng không phân thắng bại. Sau Trương Long được thủy thần Tam Lang dạy, có thể đi dưới đáy nước, đục phá thuyền giặc. Thuyền bè của giặc mất quá nửa. Khi ấy Hưng Đạo Vương cùng với ông Phạm và các quân liên tiếp giao chiến. Quân Nguyên thạo đánh đường thủy nên các ông bèn lên đánh trên bờ. Bỗng có thần Bạch Mã đến giúp. Quân sĩ Nguyên đều chạy tán loạn. Các ông thừa thắng đuổi dài, chém hơn hai trăm đầu tì tướng giặc, vài ngàn quân lính, bắn sống Hô Mã nhi, Nguyễn Bá Linh dẫn về doanh trại. Trấn Nam Vương Thoát Hoan chạy về nước. Hưng Đạo Vương cùng với ông dẫn Bá Linh ra xử tội, chặt làm 3 đoạn thả xuống cửa sông. Quân Nguyên gửi thư xin hòa. Hưng Đạo Vương truyền đem Mã Nhi về nước Bắc, đền gần cửa sông thì giả bị lật thuyền. Mã Nhi bị chết. Từ đó quân Nguyên không dám xâm phạm đất ta. Lúc ấy Nhân Tông luận công ban thưởng các cấp khác nhau, bèn phong Hưng Đạo Vương kiêm Thượng đẳng thần, thực ấp vạn hộ. Phong ông Phạm làm Khuông quốc hầu Chương tấu Phạm Đại vương. Phong ông Khiết là Dực vận hầu Khiết ốc Đại vương. Cho hai ông về xã Xối Đông lập sinh từ để ngày sau có chỗ hương hỏa hưởng thờ (còn ông Tuyết, Trương Long cũng phong Đại vương, được ghi rõ ở bản riêng).
Khi đó ông Phạm, ông Khiết vâng mệnh trở về xã Xối Đông (do ông Phạm lập đồn ở ba nơi, nên đến sau khi hóa ba thôn đều phụng thờ). Khi hai ông đến thôn Thượng truyền xây dựng một nơi sinh từ ở trong đất gần dân. Nhân dân vâng mệnh, xây dựng hoàn thành. Khi ấy ông Phạm dân biểu tâu xin được đi du chơi thiên hạ, trải xem sông núi. Vua đồng ý. Ông bèn đi xe dạo chơi. Một hôm ông đến núi Kim Nhan ở Hoan Châu, bèn lên núi ngắm cảnh. Đến nơi lưng núi bỗng thấy trời đất mù mịt, hổ thét gào. Rồi không thấy ông đâu nữa (tức ông Trần Phạm). Chỉ có ở chỗ ông ngồi thấy mối mới xây thành một gò đất lớn (khi ấy là 15 tháng Tám).
Lúc đó gia thần quân lính thấy vậy, quay về báo với nhân dân. Do người thôn Thượng xã Xối Đông theo ông Phạm thấy ông Phạm đã hóa bèn quay trở về báo với ông Khiết. Khi đó ông Khiết đang đi xe nhàn chơi. Ông Khiết lại dừng ở đất thôn Thượng, dạy đạo cho nhân dân. Ông bèn dâng biểu tâu lên Vua. Vua nghe tin, rất thương xót công thần có công lớn với nước bèn tặng phong sắc chỉ là Dực thánh Khuông quốc Phù vận Triệu mưu Lậu khê Chương tấu Phạm Đại vương. Cho ông Khiết đón sắc về thôn Thượng phụng thờ. Thế là ông Khiết truyền nhân dân thôn Thượng sửa sang chốn cũ đồn doanh để làm đền thờ mà phụng thờ. Ông Khiết ở lại nơi đất thôn Thượng, lấy nhân nghĩa lễ trí tín để giảng dạy cho nhân dân. Trong vài tháng dân trở nên thuần hậu, phong tục tốt đẹp, đất đai trù phú, đều là nhờ công đức của ông vậy.
Lại nói, ông sống ở đất đó qua 6 tháng. Một hôm ông bỗng nhiên bị bệnh liệt, cầu thần không có hiệu quả, uống thuốc không thuyên giảm. Ông mất ở trong nhà (khi đó là mùng 10 tháng Hai). Nhân dân bèn làm lễ chôn cất ở chỗ bên sông. Chôn cất xong, nhân dân dâng biểu tâu lên triều đình. Vua nhớ công lao lớn của ông với nước nhà liền phong thêm sắc chỉ là Dực vận hầu Khiết Ốc Đại vương, lệnh sứ thần đón sắc về nơi hóa, truyền nhân dân viết thần hiệu phụng thờ. Từ đó về sau các chư vị Đại vương của thôn Thượng có linh thiêng âm phù giúp nước, dẹp nạn trừ tai, cầu mưa cầu tạnh có nhiều linh ứng nên có nhiều đế vương phong thêm mỹ tự, sắc chỉ, vạn cổ hưởng thờ, muôn năm hương hỏa mãi không dứt. Tốt thay!
Phong Dực thánh Khuông quốc Phù vận Triệu mưu Lậu khê Chương tấu Phạm Đại vương.
Phong Dực vận hầu Khiết Ốc Đại vương.
Cho phép xã Xối Đông huyện Tây Chân phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam phụng thờ.
Ngày sinh thần các chư vị đại vương cùng với các tiết khánh hạ và chữ húy phải cấm vâng khai như sau.
Linh Lang Đại vương sinh thần ngày 15 tháng Giêng. Lễ dùng trên dâng mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi. Vào ngày chính có cỗ trai, bánh dày, ca hát, đấu vật mười ngày thì dừng. Hóa thần ngày 15 tháng Mười hai. Lễ dùng dâng chính mâm chay, trà quả, dưới là thịt lợn một màu, xôi, rượu.
Phạm công sinh thần ngày mùng 2 tháng Mười hai. Lễ dùng thịt lợn, xôi, ca hát, đấu vật năm ngày thì dừng. Hóa thần ngày 15 tháng Tám. Lễ dùng trên dâng oản quả, mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi, rượu.
Khiết công sinh thần ngày mùng 10 tháng Mười hai. Lễ dùng thịt lợn, xôi, ca hát ba ngày thì dừng. Hóa thần ngày mùng 10 tháng Hai. Lễ dùng trên dâng mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi, ca hát ba ngày thì ngừng.
Đại khánh hạ là ngày 15 tháng Mười một. Lễ dùng cỗ trâu, ca hát, đấu vật năm ngày thì dừng.
Mỗi năm hai kỳ xuân thu cứ hai tháng cuối mùa làm lễ bày tế. Làm lễ vật tùy nghi.
Các chữ húy Lang 郎, Phạm 梵, Khiết 潔, Hiển 顯 là bốn chữ nhất thiết cấm.
Chữ húy của các thánh phụ là Khiết 潔, Chấn 振, Phác 樸.
Các chữ húy tên không được gọi, viết văn không được dùng, chữ đọc đều phải tránh âm.
Mỹ tự có chữ Linh, chữ Quý, chữ Minh, chữ Chương, chữ Tấu, chữ Ốc. Các mỹ tự tên không được gọi , đọc đều phải tránh âm.
No comments:
Post a Comment