Saturday, December 28, 2024

Ngọc phả Bốn vị Đại vương thôn Thượng xã Xối Đông, huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường, đạo Sơn Nam

Bản chính bộ Lễ quốc triều, thủy thần và nhân thần cùng bộ.

Xưa vào thời Lý Thái Tông. Khi ấy nước ta ở trang Bồng Lai huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai đạo Sơn Tây có một người con gái họ Dương, tên là Thái nương. Năm lên ba tuổi cha mẹ đều mất. Nương sống nhờ người cậu ruột là Trần Công Tiệp ở phường Thị Trại. Đến năm lên 16 má đỏ môi hồng, mày ngài mắt phượng. Tuy lối xóm truyền nhau cầu phượng, nhưng chọn tuyển màn loan còn chưa có ai. Cho nên thơ Đào yêu vẫn chưa được ngâm đàn vậy.

Vào mùa xuân trời đẹp, Thánh Tông loan giá đi chơi ngoài thành. Người người cùng xem, kéo đến đông như nêm, không biết bao nhiêu mà kể. Khi đó Thái nương cùng với người cậu cũng cùng đến xem. Thánh Tông thấy Nương có nhan sắc đầy đặn, không kém tiên khách Bồng Doanh. Vua trong lòng rất thích, bèn dẫn về cung, lập làm Đệ tam Cung phi. Ngày ngày hầu ở bên không rời. Qua được bốn năm không thấy có việc sinh đẻ. Vua bèn lập riêng một cung ở phường Thị Trại, cho Cung phi ở đó. Từ đó Cung phi về ở nơi cung sở, luyện tập nữ công.

Một hôm mùa hè trời nóng bức. Cung phi đi ra hồ Tây giặt lụa. Đang khi ấy bỗng thấy có một con Giao long thân dày hơn mười thước, đầu đội mũ hoa, vảy giáp đỏ trắng, từ giữa hồ nổi lên đến quấn thân Nương ba vòng. Nương bàng hoàng sợ hãi, muốn chạy nhưng không được, ngã thân nằm như mất tri giác, không biết mê hay tỉnh. Được một lúc thì Giao long tự biến đi. Nương dần dần tỉnh lại, quay về cung sở, tâu lên Vua, kể về sự việc xảy ra. Vua nghe nói rất tức giận, muốn định triệu tập trăm quan viết thư bắn xuống hồ để vạch tội thủy cung. Vua bỗng nhiên thấy tinh thần lơ mơ, mơ màng như mộng, thấy một người thân khoác áo hồng, tay cầm cờ hồng, từ phương Nam đi đến, tự xưng là Thiên sư, nói với Vua rằng:

-       Ba năm sau thiên hạ có giặc Trinh Vĩnh đến xâm phạm, nên Thiên đình mệnh thủy thần xuất thế, đầu nhập làm con của hoàng gia để giúp nước dẹp giặc. Bệ hà xin chớ oán trách.

Nói xong Vua bỗng tỉnh lại, biết là mộng lành. Từ đó Cung phi cảm mà có mang thai. Đến ngày 15 tháng Giêng mùa Xuân năm Nhâm Dần sinh hạ được một người con trai. Đang khi sinh có khí lành bay khắp, hương thơm ngào ngạt. Sinh được trăm ngày Cung phi bế hoàng tử vào triều. Vua thấy vậy rất vui mừng, đặt tên là Hoàng Lang, lại cho Cung phi cùng với hoàng tử về cung Thị Trại để ở.

Qua ba năm thì có giặc Trinh Vĩnh dẫn quân đến xâm chiếm. Thiên hạ chia ba phần thì đã bị mất quá nửa. Triều đình nhiều phen giao chiến đều chịu thiệt hại. Vua bèn sai sứ thần đi chiêu mô người dân các chư huyện phủ xã trong thiên hạ, ai có anh tài, trí dùng dẹp yên được giặc thì sẽ ban cho chức trọng trong thiên hạ. Một hôm sứ thần đi chiêu mộ thiên hạ đến lúc về đi đến phường Thị Trại. Hoàng Lang lúc này tuổi mới lên ba, mới biết ăn uống, còn chưa biết nói năng. Đến khi nghe sứ giả chiêu mộ tới nơi, bỗng hỏi mẹ rằng:

Sứ giả chiêu mộ gì vậy?

Cung phi nói:

-  Nay có giặc Trinh Vĩnh đến xâm chiếm. Việc thiên hạ an nguy hệ trọng trong sớm tối. Hoàng tử miệng còn hôi sữa, sao có thể dẹp giặc mà hỏi làm gì?

Hoàng Lang nói:

-       Mẹ gọi sứ giả lại đây.

Cung phi bèn gọi sứ giả vào gặp. Hoàng Lang nói với sứ giả:

-       Ngươi hãy mau trở về tâu với Vua cha cho ta một con voi khỏe cùng một lá cờ lớn, tất cả đều phải dùng bằng đồ sắt, mau chóng đem đến. Quân giặc kia sẽ sớm được dẹp yên.

Sứ giả vâng mệnh về triều, dâng tấu lên Vua. Vua nhanh chóng truyền đúc một con voi sắc, tạo cùng đó một lá cờ lớn, đem đến cung Thị Trại. Khi đó Hoàng Lang thở mạnh một tiếng, bỗng thấy thân dài ra một trượng, tay cầm cờ lớn, nhảy lên voi khỏe, hô to một tiếng rằng:

-       Ta chính là Thiên tướng.

Voi chạy như bay. Voi khỏe rống lên một tiếng, trong miệng có lửa bay ra. Trong chốc lát đã đến thẳng đồn giặc. Hoàng Lang tay cầm cờ lớn chỉ vào doanh trại giặc, hô rằng:

-       Ta vâng sắc mệnh Hoàng thiên đến giúp nước dẹp giặc. Lũ giặc sẽ chết không còn một tên.

Nói xong bỗng thấy doanh trại giặc bốc lửa, trong khoảnh khắc cháy rụi. Lũ giặc đều chết cháy. Hoàng Lang quay trở về bái yết vua.

Thế rồi Hoàng Lang bỗng nhiên bị mắc bệnh đậu mùa. Sau ba tháng mà bệnh không thuyên giảm. Vua thân đến tận nơi thăm hỏi, nhân đó nói với Hoàng Lang:

-       Khanh là con của ta thì chứng đậu mùa này tất sẽ khỏi.

Hoàng Lang cúi mình khóc rằng:

-       Thần vốn là con ở thủy cung, không phải con của bệ hạ. Trước thần vâng theo mệnh Thượng đế xuất thế dẹp giặc. Ba năm đã hết hạn, phải quay trở về nhậm chức ở thủy cung.

Vua nghe vậy bèn nói rằng:

-       Khanh có công lao to lớn với nước nhà, mà chưa được báo đáp. Khanh muốn được như thế nào thì ta cũng sẽ đồng ý.

Hoàng Lang tâu rằng:

-       Thần xin Bệ hạ đem thần ra chỗ bàn đá bên hồ Tây, cùng với con voi chiến và lá cờ lớn mang đến đó. Thần xin được cầm cơ ném lên trên trời. Cờ bay đến nơi nào, xin Bệ hạ cho nơi đó là nơi thần được lưu danh ngàn đời. Thế là thần đã mãn nguyện rồi.

Khi đó Vua truyền quân lính đón Hoàng Lang cùng với voi và cờ đến thẳng trên bàn đá bên bờ hồ Tây. Vua thân đến tiễn, hai bên có các quan đi theo, phía sau là các tùy tùng. Đến chỗ bàn đá, Hoàng Lang tay cầm lá cờ lớn ném lên trên trời. Bỗng thấy trời đất

Mờ mịt, sông nước sóng dân cuồn cuộn. Giao long, ba ba trùng trùng vạn hàng nổi trên nước. Cá kình, cá sấu lớp lớp cuộn ngàn ánh sóng. Hoàng Lang bỗng hóa thành một con giao long trườn thẳng xuống hồ Tây mà hóa. Khi đó là ngày 15 tháng Hai. Con voi cũng phục xuống ở phía trái của bàn thạch bên hồ Tây. Được năm ngày sau lá cờ lớn bay trở về dừng ở bên phải. Vua thấy đó lá cờ lớn đó rất anh linh bèn phong tặng là Linh Lang Đại vương, cho lập miếu ở nơi bàn đá làm đền chính để hương lửa phụng thờ.

Việc xong Vua ban chiếu truyền thần dân thiên hạ nơi nào ngày trước lá cờ lớn hoặc có bay tới địa phương đó thì đều về kinh thành nghênh đón sắc mang về phụng thờ trong dân.

Khi ấy ở hai thôn Thượng và Trung xã Xối Đông huyện Tây Chân phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam là cờ lớn cũng có bay tới, chỉ vào nơi trong dân. Từ đó nhân dân thấy bị động, vật nuôi không yên, nhân dân gặp nhiều thiệt hại. Đến khi nghe thấy chiếu truyền đến người thôn Thượng đã làm lễ lên kinh thành nghênh đón sắc Hoàng Lang về phụng thờ cùng với Quý Minh Đại vương ở cùng một nơi. Từ đó nhân dân được an khang, no đủ, vật nuôi yên ổn, đều là nhờ ơn đức lớn của Hoàng Lang. Trải các đời sau đều có nhiều linh ứng giúp nước giúp dân, nên có nhiều đế vương đều có phong thêm các mỹ tự, sắc chỉ, vạn năm hưởng huyết thực, hương lửa không dứt vậy.

Phong Linh Lang Đại vương. Cho phép thôn Thượng xã Xối Đông huyện Tây Chân phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam phụng thờ.

(Phần sau là thần tích về 3 thần khác, không dịch)



No comments:

Post a Comment