Tuesday, February 6, 2024

Phả chép về một vị phu nhân âm phù triều Trưng nữ vương

Dịch từ bản khai thần tích thần sắc làng Nhuế Đông, xã Lang Tài, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Phả chép về một vị phu nhân âm phù triều Trưng nữ vương
Chi Khảm, bộ Thượng đẳng
Chính bản bộ Lễ quốc triều
Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ mở vận ứng đồ hơn hai ngàn năm Hùng Vương dựng nước núi xanh vạn dặm lập nền đô thành cung điện, nước biếc một dòng mở đạo đế thánh vua sáng, mà cứu vật giúp người, cai quản 15 bộ, gọi là tổ ban đầu của Bách Việt vậy. Về sau họ Hùng có trăm thần sông núi thường hay xuất hiện, biến hóa thần kỳ, âm phù giúp nước giúp dân. Có thơ rằng:
Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương
Nhất thống sơn hà thập bát vương
Thập bát thế truyền thiên cổ tại
Ức niên hương hoả ức niên phương.

Dịch nghĩa:
Ban sơ Nam Việt từ Kinh Dương
Thống nhất núi sông mười tám vương
Mười tám đời truyền ngàn năm đó
Vạn năm hương lửa vạn năm hương.

Lại nói, cơ đồ họ Hùng tương truyền được 18 đời đến khi mạt tạo, ý trời muốn dứt, trải qua các triều đại Tây Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy, tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần mở mang cơ đồ, giữ quốc thống bền lâu vậy.
Xưa ở đất Việt có Trưng nữ vương. Vương họ Trưng tên Trắc, người huyện Mê Linh, Phong Châu, là con gái của Lạc tướng, lấy chồng là Thi Sách. Khi ấy có giặc Hán Tô Định dẫn quân đến xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu tang thương, không người cứu giúp. Khi đó người cháu gái Hùng Vương tên là Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt, là thánh thần trên đời, nổi oai hùng cất quân đến đánh. Đang khi ấy không có bậc nam nhi nào có đủ tài thao lược. Vương vì trả thù cho chồng mà cùng với em gái khởi binh. Nữ tướng dẫn quân, thần linh phát động. Thế rồi Trưng nữ bèn cầu đảo Tản Viên Sơn Thánh, lại lập đàn cầu đảo bách thần ở cửa sông Hát Môn (nay thuộc xứ Sơn Tây). Bèn chúc rằng:

  • Trời sinh con người là tông chủ của vạn vật trong đất trời, sinh linh có dòng dõi, cỏ cây có tương quan. Trải các đời đế vương trước đây là những bậc thiên tử thánh minh, triều đình có đạo yêu dân vì nước. Đức hóa chuyên năng. Thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có kẻ tộc ngoài là tên Tô Định, như loài dê chó quấy phá, lộng hành điên cuồng, bạo ngược nhân dân. Trời đất thần người đều căm phẫn. Thiếp hiềm chỉ là cháu của Hùng Vương trước đây, là một nữ nhân, nghĩ đến sinh linh, hoàng thiên rơi lệ. Ngày hôm nay đau lòng thương cảm mà trượng nghĩa trừ tàn bạo. Xin trăm vị chư tôn hội đàn chứng giám, giúp thêm sức cho Trưng nữ thiếp dẫn quân dẹp giặc, giữ nước cứu dân. Để thiếp khôi phục được cơ nghiệp trước đây của tổ tông, để các sinh linh được hưởng miếng cơm manh áo, đưa sinh linh khỏi chốn nước lửa, mà không phụ lòng của tiền nhân, thỏa sự linh thiêng đền miếu tiên hoàng, an ủi tổ phụ dưới nơi chín suối.

Chúc xong thấy xuất hiện ngàn hàng vạn đội âm binh. Ngay hôm đó Trưng nữ bèn truyền hịch đến các đạo, châu, huyện nước Nam, ai người có tài văn võ, anh hùng, có thể chống giặc thì ngay lập tức chiêu mộ tráng binh dẫn đến để chọn lựa người có kỳ tài mà phong chức vụ.
Hôm đó các đạo nghe thấy chiếu của Trưng nữ bèn đem các quân trong làng xóm dẫn đến ứng tuyển. Trưng nữ bèn phong những người có tài làm đại tướng. Còn binh sĩ xếp thành các đội. Ngày hôm đó Trưng nữ giao cho tướng lãnh quân đi trước dẹp đường. Còn mình thì dẫn quân đi sau ứng trợ.
Ngày hôm đó Trưng nữ sai các tướng đem quân tuần phòng các đường, dẫn quân xuất binh đường đường mà đi. Ngay hôm ấy Trưng nữ dẫn hai ngàn quân đi đánh với giặc Hán. Một buổi tiến đến đạo Kinh Bắc (xưa gọi là Vũ Ninh), phủ Thuận An (sau đổi là Thuận Thành), huyện Lương Tài (xưa là Thiện Tài). Trời đã về chiều, gặp quân Hán nên đóng quân thủy ở gần sông Thiên Đức. Trưng nữ bèn trú quân ở khu đất đầu trang Nhuế Đông, nơi có miếu thờ. Đến tối Trưng nữ bèn vào cầu đảo trong đền thần mong được âm phù dẹp giặc. Tối hôm đó tới giữa canh ba Trưng nữ bỗng nhiên nằm mộng thấy một bà lão tuổi khoảng 40, có phong tư yểu điệu, nhan sắc phi thường, mặt phượng mày ngài, má hồng môi phấn, vạn điểm như sóng thu, mười phần là sắc xuân, theo con đường trước miếu mà đến, tự xưng rằng:

  • Ta vốn là Hoàng Thái hậu triều Tống, tên là Càn Hải phu nhân. Do khi nhà Tống suy vong, giặc Nguyên xâm chiếm nên mẹ con ta ba vị hồng nương cùng xuống thuyền rồng lánh nạn ở ngoài hải đảo, vượt qua sông núi đên nơi cửa biển Am thì gặp sóng gió mà cùng hóa vậy (ngày hóa là 15 tháng 5). Thiên đình cảm động ban chiếu cho các trang khu, phường trại ở cạnh sông góc biển lập miếu mà thờ cúng để đề cao tích thiêng của phu nhân. Nay thấy nữ tướng dẫn quân dẹp giặc Hán đến trú quân và cầu đảo được âm phù nên ta xuất hiện, xin được theo quân đội dẹp giặc lập công.

Bà lão dứt lời thì biến mất (ngày thần hiện là mùng 9 tháng 2). Trong phút chốc Trưng nữ tỉnh lại, biết là linh thần xuất hiện giúp nước giúp dân. Rạng ngày Trưng nữ gọi nhân dân và phụ lão ở trang khu Nhuế Đông đến hỏi rõ việc này:

  • Ta muốn hỏi có phải hai khu trang ấp các người phụng thờ một vị Tống Hoàng Thái hậu, rất là linh hiển phải không?

Khi ấy nhân dân phụ lão trang khu Nhuế Đông đều sợ hãi mà làm lễ mừng, tâu rằng:

  • Đúng là trang khu chúng thần theo như trước đây khi mới lập trang khu có xin lĩnh lô hương ở cửa biển Am mang về dân lập miếu mà thờ cúng, thật sự rất linh nghiệm.

Trưng nữ nghe vậy bèn ban cho nhân dân phụ lão một nén vàng tím để tu sửa miếu điện, đợi khi yên bình sẽ gia phong Thượng đẳng thần. Hôm ấy Trưng nữ vương bèn dẫn quân về phía Tây, hội quân cùng các tướng. Tướng nam dẫn quân nam. Tướng nữ dẫn quân nữ, cùng với em là Nhị cùng các tướng chia thành các đạo tiến thẳng đến đồn Tô Định đánh một trận đại phá, bắt được Tô Định ở xứ Lãng Bạc mà chém đi. Quân Hán thua to, chém được chính tướng và tì tướng cùng binh sĩ vài ngàn đầu, thu được khí giới. Xây dựng 65 thành ở Lĩnh Ngoại, khôi phục toàn bộ đất đai nước Nam.
Hôm ấy các tướng đón Trưng nữ khải hoàn, lên ngôi xưng là Trưng nữ vương. Bèn mở tiệc mừng lớn, phong thêm cho các tướng sĩ cấp bậc tương ứng. Vương bèn nói với quần thần các tướng rằng:

  • Giặc Hán dẹp yên được cũng là do có thần âm phù trợ giúp.

Bèn sai sứ sắc phong cho bách thần các mỹ tự. Sắc phong thần hiệu nguyên tên phong là Đại Càn Nam Hải linh ứng tôn thần. Tặng phong là Nga hằng Uyển mị Chí đức Đoan trang Hoàng Thái hậu Thượng đẳng thần.
Từ đó về sau có nhiều sự linh ứng nên có nhiều các đời đế vương thường đều có phong thêm mỹ tự, cho phép cửa biển Am là nơi hộ nhi. Thường nước cầu dân khấn, anh linh không phai. Sắc vâng ban cho trang khu Nhuế Đông phụng thờ. Vâng thay!
Đến thời Trần Anh Tông đi chơi ở núi Yên Tử, đến cửa biển thì gặp nạn sóng gió, mà được một vị tôn thần cứu thoát. Đến ngày về Đế bèn phong thêm mỹ tự là Huệ hoà Gia hành Đoan trang Thục diệu Phu nhân Thượng đẳng thần. Lại ngâm một câu thơ:
Hương hoả thiên thu âm tục Tống
Phong ba nhất trận mặc phù trần.

Nghĩa là:
Hương lửa ngàn thu âm nối Tống
Sóng gió một trận thầm giúp Trần.

Lại nói, sắc chỉ ban cho trang khu Nhuế Đông phụng thờ. Vâng thay!
Thời sau khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa Lam Sơn dẹp trừ giặc Minh, cùng bè đảng Mộc Thạnh, Liễu Thăng, đến khi có được thiên hạ thì vua Thái Tổ bèn phong thêm mỹ tự là Ý đức Thuần hoà Anh linh Phù tộ Phu nhân Thượng đẳng thần. Sắc chỉ ban cho trang Nhuế Đông khu Đặng Thượng và khu Thiên Lộc cùng tu sửa miếu điện để phụng thờ, cùng với nước nhà hưởng phúc, mãi là thức lệ. Vâng thay!
Ngày tiệc thần hiện vào ngày mồng 9 tháng 2. Lễ chính lệ dùng trên có mâm chay và phẩm quả, dưới tùy xếp cỗ, ca hát ba ngày.
Niên hiệu Hồng Đức năm thứ 5 giữa xuân ngày tốt Đệ tam giáp Tiến sĩ trí sĩ Thượng thư bộ Lễ Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần là Nguyễn [Bính] vâng soạn bản chính. Nội các bộ Lại tuân theo bản chính cũ vâng sao.
Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 13 ngày mồng 1 tháng 3 lý trưởng xã Nhuế Đông vâng sao nguyên như bản chính.

No comments:

Post a Comment