Ngọc phả ghi về Tản Viên Sơn Thánh,
Bản sửa của Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, trích in từ cuốn "ĐẠI HÓA THẦN KINH"
Đại Hóa Thần Kinh |
Một ngày, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
- Ta là giống Tiên, nàng là giống Rồng, nước lửa tương khắc, không thể ở chung.
Thế là bèn phân 50 người con theo mẹ về biển, nay chính là Thủy thần Quảng Tế. Còn trong 50 người con theo cha lên núi thì Thánh Tản ta là con trưởng.
Thánh vốn là Thanh Vi Thái Bạch Kim Tinh giáng sinh. Bẩm sinh đã khác lạ, tư chất vượt thường, có tài động trời trùm đất, có thuật dời núi lấp biển, Thật đúng là con của đất trời, vua trưởng của xã tắc. Từ khi lên núi, Thánh phụ ở ngôi, lập đô Phong Châu. Thời ấy mưa thuận gió hòa, dân yên nước thịnh, đào giếng cầy ruộng, tất cả đều theo phép tắc của vua, khắc đề là Giao Chỉ, rạng rỡ nét phong hóa thuần cổ. Được hơn bốn năm Thánh phụ bất chợt quy thiên, mây che Đỉnh Hồ, ôm bảng đen mà nén khóc. Thuyền ra khe lớn, thương thay ngựa lồng khó giữ. Tản Sơn Thánh từ đó đau xót không ngơi, bèn nhường lại nước cho người em thứ ba, chuyên tâm niệm vào việc tu luyện. Lại thêm núi Tản Viên có hình núi đẹp đẽ, vách đứng chọc trời, trên có một con đường có thể tới đường mây. Dưới có con đường có thể thông với địa phủ. Tất cả các núi cao đường xa của nước Nam đều dẫn về chầu quanh nơi này. Tản Thánh ở đó, ngày đêm tu luyện, ngày càng thêm tinh. Được 16 năm bỗng nhiên thần hóa. Thượng Đế sắc phong làm Nam Nhạc thần, nắm quyền Nam Tào Bắc Đẩu, là chủ của vạn thần nước Nam. Tất cả việc nối ngắt các triều đại, hóa sinh của người vật, không có gì là không thuộc quyền xét của Thánh, là đại diện phân xử chính. Đến nay việc ra vào đi đứng, ăn uống trang phục đều như lúc còn sống. Trong các thần bất tử nước Nam thì Tản Thánh ta là đứng đầu.
Thời Hùng Vương có người ở châu Ái là Nguyễn Khang, lớn tuổi mà chưa có con trai, cùng với em đến cầu đảo ở núi Tản Viên. Tản Thánh ta xét tâm thành ấy, hóa làm một đạo sĩ, ban tặng cho nơi đất tốt ở động Lăng Sương, quyết rằng: một huyệt sinh được ba vị thánh. Năm ấy sinh ra Nguyễn Tùng, quả nhiên là tư chất kỳ lạ hơn người, khí chất con nhà thành đạt. Khi Nguyễn Tùng được 15 tuổi thì Tản Thánh lại hiện thành vị tiên Thái Bạch, trao cho gậy thần. Nguyễn Tùng theo phép sau cứu được Thái tử của Long cung, tức là con trưởng của Thủy thần Quảng Tế. Thủy thần cảm công đức ấy mới tặng cho cuốn sách ước, dặn rằng: dựa vào sách này mà cầu được như ý. Nguyễn Tùng từ khi được sách này thì tất cả lân thử nghiệm đều thấy linh ứng. Sau Nguyễn Tùng tham gia giúp việc nước, được 14 năm thì cáo lui, đi ngắm các nơi danh thắng sông núi. Đến khi 77 tuổi thì tạ thế (nay thấy trong ngọc phả xã Thủ Pháp có chép việc này). Các em Nguyễn Hiển, Nguyễn Sùng đều hưởng tuổi thọ, với nước cùng vui, sau hóa có hiển linh, được thờ cùng ở xã Thủ Pháp, tỉnh Sơn Tây. Kỳ thực ba vị thánh này đều là sự hiển hóa của Tản Viên Thánh thay phiên nhau mà xuất hiện (để phân minh rõ việc này nay có thể xem tham khảo với ngọc phả xã Thủ Pháp).
Lại nói, thời loạn 12 sứ quân, chính sự nước Nam không người lo lắng. Tản Thánh phục tấu Đế đình rằng:
- Nước của thần xa ở phương nóng, ánh sáng chiếu rọi, không có ngoại lệ. Xin chọn cho một vị vua chính thống làm chủ nhân dân.
Thượng Đế đồng ý, bèn mệnh sai Đinh Tiên Hoàng giáng sinh, dẹp trừ giặc phương Bắc, sáng lập triều đình. Bậc vua chính thống thực sự bắt đầu từ đó.
Nước Nam trước đây còn chất phác lạc hậu, chưa biết đến sách vở. Tản Sơn Thánh lại tâu lên Đế đình, lại mệnh sai thánh đồng Nhâm Diên giảng dạy về hôn nhân, cày cấy. Sau lại mệnh sai thái thú Tích Quang giảng dạy thơ sách, lễ nghĩa. Phương Nam ta bắt đầu có phong tục tốt đẹp từ đó. Trải thế thứ các đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Hoàng Nguyễn, đều do Tản Thánh trình tâu lên, tuy giản dị nhưng nguyên tắc là giữ được điều trọng yếu, tìm được nguồn gốc mà ủy thác.
Tản Thánh ta thực là thủy tổ của nước Nam. Mà Lạc Long Quân cũng là thủy tổ của các tổ vậy. Vạn năm công đức sánh cùng trời đất. Đời đời thờ cúng. Các triều tôn báo, sắc phong là Chiêu tường Tập thiện Đại vương, tới nay có nhiều linh ứng. Song ngọn núi cao tuyệt, thần lại rất thiêng, hiếm có ai lên được đến đỉnh để mà có thể biết rõ. Nay phụng chép các bài thơ của các vị thánh đã đề để dùng làm tham khảo.
Thơ của thiền sư Không Lộ:
Muốn lên núi lạnh cất tiếng vang
Gió tiên thổi tiễn bước thênh thang
Vân Già chùa cổ tìm vết lối
Rêu khóa cửa tầng thoát tục gian
Rèm ngọc ánh hồng tô nét đất
Đá bàn mây tỏ giữa trời quang
Tiểu thần may mắn hầu cung khuyết
Xin gọi cúc hoa hướng nắng tràn.
Thơ của thiền sư Từ Đạo Hạnh:
Bất tử danh truyền, ảo chính chân
Ba sinh tu luyện chứng tiền thân
Sao bay cực tím nghiêng về Bắc
Rêu phủ tường sâu chẳng biết xuân
Mọc tỏa hoa trời hương chẳng dứt
Thư đem chim biếc mộng bao lần
Ở đời thiện ác đều giám quyết
Nghiêm cẩn đêm ngày có thị thần.
Thơ của Phù Đổng Thiên vương:
Giáp Tí bấy lâu bụi khói tung
Lẫm liệt linh thiêng tỏ vô cùng
Huy hoàng hương lửa hai đài vững
Sừng sững càn khôn một sức nâng
Dốc lượn núi xa nên tạc vẽ
Lầu tầng gác nối tạo bình phong
Bầu trời một khoảnh như ngời sáng
Giữa chốn ngày nào gậy sắt vung.
Thơ Thân vương Trần Quốc Tuấn:
Ngoài thành một ngọn núi Châu Phong
Hình dáng chênh vênh, cúi ngưỡng trông
Vạn cổ sách thần nêu tuyệt đỉnh
Nghìn tầng đá quái khóa thâm cung
Bao la sao đẩu lòng vô hạn
Xoay chuyển càn khôn trí tuệ hùng
Một tấc oai trời còn ngóng vọng
Khi xưa thần kiếm chặn gió lồng.
Tiểu thần Nguyễn Bỉnh Khiên bái đề:
Dực Chẩn dải sao trấn đất Nam
Làn mây mờ thẳm vén Tiên am
Phép mầu sấm sét người sao biết
Xét việc dữ lành thần giỏi làm
Mù mịt khói hương nhô bệ đá
Trong trong sương quý rỏ hoa chàm
Tiểu thần may được nương nhờ chốn
Vạn tuế ba lần xin tụng vang.
Những bài thơ đề trên đều sánh như cánh chái phải trái bằng đá ngọc tuyệt tác để mà lưu truyền lâu dài.
Tiểu thần Cổ Am Nguyễn Bỉnh Khiêm vâng mệnh chỉnh lý.
Trang đầu cuốn Ngọc phả Tản Viên Sơn Thánh do Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉnh lý |
No comments:
Post a Comment