Ngày nay học sinh sinh viên Việt Nam học sử Việt, được giảng: Thục An Dương Vương là người đã thay thế Hùng Vương lập ra nước Âu Lạc, xây thành Cổ Loa, rồi bị Triệu Đà sai con là Trọng Thủy đến lừa lấy mất lẫy nỏ thần, nên phải đường cùng mà tự vẫn ngoài biển Đông... Cao cấp hơn một chút, các giáo sư lịch sử sẽ "hé lộ" phát kiến mới chưa từng được sử sách nào ghi lại... là chuyện Thục Phán được các Lạc hầu Lạc tướng tôn lên làm "người Tuấn kiệt", kháng chiến chống đại quân Tần thắng lợi...
Việc quy kết tất cả các chuyện nói đến Thục Vương đều vào một thời gian khi thời đại Hùng Vương kết thúc là một sự lạc lối hết sức lớn của cổ sử Việt. Nếu Hùng Vương có tới 18 chi nhánh (18 triều đại) thì liệu Thục Vương có thể chỉ là 1 người được hay sao?
Thục thực ra là danh từ chỉ phía Tây vì:
- Thục = Thụt, là hướng mặt trời lặn.
- Thục nghĩa là Chín (thành thục), chỉ số 9, con số của hướng Tây.
Ví dụ nước Ấn Độ được gọi là Tây Trúc hay Đại Thực đều là những từ phiên thiết của chữ Thục mà ra, chỉ nước ở phía Tây Trung Hoa.
Vì Thục nghĩa là phía Tây, nên Thục Vương có nghĩa là Tây Vương, không phải là tên 1 người hay một dòng họ, mà là một danh xưng của các triều đại lập quốc ở phía Tây Trung Hoa xưa. Do đó, không phải chỉ có 1 Thục Vương, mà là có hàng loạt các triều đại Thục khác nhau trong sử Việt.
Hơn nữa, các sách vở đều ghi, Thục Vương là dòng dõi hoàng đế đời trước của Hùng Vương. Như vậy, việc Thục Vương kế vị (Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Vương) là chuyện tự nhiên và quan trọng hơn, khi đó Thục Vương lại trở thành một triều đại Hùng Vương kế tiếp.
Với cách nhìn nhận như vậy, xem hết trong sử sách nước ta, có ít nhất những thời kỳ sau có nói tới Thục:
1. Trong sự tích của Quốc mẫu Tây Thiên kể, bà đã tụ họp quân dân ở vùng Đại Đình, Tam Đảo kéo về Phong Châu giúp vua Hùng dẹp tan giặc Thục. Do đó, bà đã được phong là Tam Đảo sơn Trụ quốc Mẫu, đời đời tôn là người mẹ nguyên tổ của cả dân tộc họ Hùng. Giặc Thục ở thời kỳ này là tộc Cửu Lê do Xuy Vưu cầm đầu, đã được Hiên Viên Hữu Hùng Hoàng Đế (Đế Minh) dẹp nhờ sự giúp đỡ của Cửu Thiên Huyền Nữ (Tây Thiên Quốc mẫu). Sự kiện diễn ra ở thời khởi sử 5000 năm trước của Hồng Bàng Thị.
Câu đối ở đền Hóa Tây Thiên:
Vô sinh thiên hạ giai xưng mẫu
Phù Hùng tảo tặc hiệu thánh thần.
Dịch nghĩa:
Tự không thiên hạ đều xưng mẫu
Giúp Hùng dẹp giặc gọi thánh thần.
2. Trận chiến Hùng - Thục thứ hai được kể trong sự tích Vĩnh Công Bát Hải Động Đình đánh Thục cùng với các vị quan lớn. Trong lần này, phần thắng thuộc về Hùng Vương, tức là dòng phía Đông (Động Đình) thắng dòng phía Tây. Đây cũng là chuyện Lạc Long Quân đánh nhau với Đế Lai khi bắt Âu Cơ vì vua cha Bát Hải đứng đầu Thoải phủ là Lạc Long Quân. Trong Hoa sử thì đây là cuộc chiến giữa Hạ Khải, con của Đại Vũ, đã đánh đuổi ông Bá Ích giành quyền cai quản thiên hạ. Sự kiện này đánh dấu mốc thời kỳ lịch sử theo chế độ phụ đạo, cha truyền con nối (Đại Vũ cho Hạ Khải hay Kinh Dương Vương cho Lạc Long Quân) ở quãng 4000 năm trước. Có thể gọi thời kỳ này là Việt Thường Thị.
Câu đối ở điện thờ vua cha Bát Hải tại đền Đồng Bằng:
Bình Thục trứ nguyên huân, mỹ tai Hồng Lạc sơn hà, bi kệ trường minh Đào Động miếu
Lịch triều long tự điển, tế thử Á Âu phong hội, sương uy do tại hải môn thu.
Dịch nghĩa:
Trải triều đại thịnh dày năm xưa, đúng đây hội tục Á Âu, màn uy còn tại tiết thu cửa biển
Dẹp quân Thục công đầu tiếng nổi, đẹp thay Lạc Hồng sông núi, bia đá mãi sáng nơi miếu Động Đào.
Câu đối ở đình Bảo Đà (Việt Trì):
Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm
Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Dịch nghĩa:
Mấy ngàn năm phụ đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp
Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.
Câu đối ở đình Thổ Hà, nơi thờ Lão Tử:
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai Đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác Thần Tiên.
Dịch nghĩa:
Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng giữ chốn thanh hư, mở Đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một truyền phép màu nhiệm, tạo Thần Tiên.
Câu đối ở đền Cổ Loa:
Chiêu lăng tùng bách kim hà xứ
Thục quốc sơn hà thượng cố cung.
Dịch nghĩa:
Thông bách lăng Chiêu giờ đâu nhỉ?
Non sông nước Thục đó cung xưa.
Tới đây ta nhận thấy, cuộc chiến giữa Hùng - Thục hay hai dòng Đông - Tây chính đã tạo nên sự phát triển chế độ xã hội Trung Hoa (Việt), là những nấc thang trên con đường tiến hóa của lịch sử phương Đông. (Hùng - Thục) = (Đông - Tây) = (Âu - Lạc) = (Rồng - Tiên) là cặp lưỡng lập, âm dương tăng trưởng không ngừng.
Trong các thần tích Việt, còn có sự kiện Tản Viên Sơn Thánh cùng các tướng lĩnh đánh Thục. Đây khả năng là sự kiện thứ 3 nêu trên, khi Thục Vương - Tây Bá Hầu Cơ Xương (Âu Cơ) đánh nước Sùng của Sùng Hầu Hổ (Sùng Lãm). Sử Việt kể Hùng Vương sau nhiều trận chiến với sự trợ giúp của Sơn Thánh đã nhường lại ngôi vị cho Thục Vương.
Ngoài ra, còn một thời kỳ Thục nữa là thời Tây Thục của Lưu Bị, mà khi đó phần Tây của miền Bắc Việt do Mạnh Hoạch cai quản, là một khu tự trị của nhà Tây Thục. Khu vực Tây Bắc sau đó đã không bị nhà Tấn chiếm được, tồn tại mãi dưới tên Hậu Lý Nam Đế, kéo dài tới thời Tùy mới nhập lại với quốc gia Trung Hoa, để rồi sau đó thời gian ngắn lại tách ra thành nước Nam Chiếu nổi tiếng trong sử cận đại.
No comments:
Post a Comment