Hùng
Vương Thánh Tổ Ngọc phả tựa
rằng:
Vạn
phái nguồn gốc sâu xa như biển lớn chảy mãi. Tiên vương ân nghĩa đắp bồi vạn thế,
đức trạch cao dày khắp chốn, sự lành còn đó muôn năm, đất nước yên bình, quốc
gia thịnh vượng sao!
Nên
Ta tuân theo Trời, nối tiếp đức lớn, ngưỡng tổ tông tích đức qua các đời, sáng
lòng nhân, yên trời đất núi sông khắp chốn vậy. Ấy là gây dựng nước Nam Việt ta
cơ đồ bao la, công nghiệp đế vương to lớn. Trời theo cùng, người quy về, các
chư hầu cùng phục, lập thứ tự trăm quan trong triều đình, yên định vạn dân,
xưng tên nước, đặt trăm quan, chia trăm họ, phân các quan lập các xứ, dựng nước
xây thành, vững mạnh 15 bộ giữ mỗi phương phân định, thiết lập các chức vị, phủ
huyện, xã, châu, trang, động, sách.
Hùng Vương
miếu ở Vân Luông, Việt Trì, Phú Thọ.
Như đã thưa chuyện cùng
quý vị độc giả trong số báo trước, từ cuốn Hùng
Vương Thánh Tổ Ngọc phả, cùng với sư thầy Tâm Hiệp chúng ta bước đầu đã vén
được một màn sương mờ của lịch sử nguồn cội. Tôi nhớ lại buổi lễ dâng sách lên
các vua Hùng tại đền Vân Luông, Phú Thọ, khi đoàn chúng tôi vừa mới bước vào
chính điện của ngôi đền thì bát hương vòng trên ban chính bỗng cháy sáng bừng
lên như hóa. Thật là một sự cảm ứng nhiệm màu với tâm thành của những người con
trước tiên tổ ngàn đời.
1. Tiếp tục đặt câu hỏi
với sư thầy Tâm Hiệp, tôi bày tỏ băn khoăn, liệu thời Hùng Vương người Việt đã có
họ chưa? Dòng họ mà tôi đang mang từ cha tôi, ông tôi, liệu bắt đầu có
từ bao giờ?
Thầy Tâm Hiệp chia sẻ,
chúng ta là sự tiếp nối của nguồn cội ngàn đời. Dòng huyết quản chảy trong mỗi
người con Việt hôm nay vẫn là dòng máu của những người con cùng chung một bọc đồng
bào, của cùng một họ tộc. Đó là họ Hùng. Ngày nay không có mấy ai mang họ Hùng
nhưng thực ra tất cả người Việt đều là người họ Hùng. Họ Hùng là họ của cả đại
tộc Việt, chứ không phải chỉ của một dòng họ. Vị vua Họ Hùng đầu tiên là Hữu
Hùng Hoàng Đế, tức là Đế Minh, người đã khởi đầu sử Việt. Đây cũng là vị vua mà
đền Hùng thờ với bài vị là Đột Ngột Cao Sơn, như đã trao đổi.
Còn việc lấy tên họ xưng
theo dòng cha là hình thức của chế độ phụ đạo, cha truyền con nối. Chế độ này
khởi đầu dưới thời cha Lạc Long Quân, vị “cha tổ” của người Việt cách đây 4.000
năm lịch sử. Tuy nhiên, phải tới thời kỳ vua Hùng sau đó, việc đặt ra trăm họ mới
được chính thức bắt đầu.
Thầy Tâm Hiệp cho biết,
rất nhiều vấn đề về quá khứ dân tộc, đã có ngay trong cuốn sách trời Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả. Nếu đọc Ngọc
phả với sự cẩn trọng suy nghĩ cho từng câu chữ, chúng ta sẽ có được những câu
trả lời đầy đủ. Phần Nam Việt Hùng Thị sử
ký trong sách có ghi về vị con
trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ như sau:
Thái
tử là Hùng Quốc Vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn... Bấy giờ vua
truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ
Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, đặt ra chức vụ trăm
quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi
phương...
Dựng
hầu lập bình phong, chia nước thành 15 bộ. Đất đai 15 bộ này được xác định
cương giới, định người trưởng quân gọi là Bô (bố), cha gọi là Trá (cha), con
trai gọi là Côn (con). Nam nữ đều xem theo dòng cha mà xưng. Hậu thế đổi thành
quan lang, phiên thần, thổ tù, phụ đạo. Cháu chắt của các công thần khai quốc
được cha truyền con nối, vạn đời nối giữ Nam Bang.
Hùng Quốc Vương khi lên
ngôi lập nước Văn Lang đã phân chia đất đai cho những người em và các công thần,
“định
làm trăm vương”. Các vị trưởng quân này lại được “đổi làm trăm họ”. Quyền cai quản các khu đất phong được “cha truyền con nối”. Con cháu nam nữ “theo dòng cha mà xưng”. Như vậy, chế độ
phụ đạo cùng với trăm họ bách tính của người Việt được khởi đầu dưới thời kỳ
này. Các họ ban đầu thường lấy theo tên của vị thủ lĩnh vùng đất phong hoặc lấy
theo tên của vùng đất phong đó.
Hùng Vương
và những người con trai. Tranh sứ bảo tàng đền Hùng.
2. Đó là những thông
tin về dòng họ người Việt theo những ghi chép trong Ngọc phả Hùng Vương. Tôi
miên man nghĩ, liệu ở thời nay còn có thể lần tìm được các dấu chỉ gì để minh chứng
cho lời phả về sự xuất hiện các dòng họ trong buổi đầu dựng nước hay không?
Như hiểu được những băn
khoăn trong tôi, thầy Tâm Hiệp thong thả chia sẻ. Từ năm 2014, thầy có duyên
lành đặt chân đến vùng đất Đan Nê ở huyện Yên Định, Thanh Hóa. Nơi đây có một
ngôi đền rất cổ, thờ thần Trống Đồng. Vùng đất quanh sông Mã và sông Chu này cũng
là nơi người ta tìm thấy nhiều dấu tích khảo cổ từ thời kỳ văn hóa Đông Sơn trước
Công nguyên. Dưới thời vua Quang Trung ở đây đã tìm được một chiếc trống đồng cỡ
lớn. Trống sau đó đã được hiến cho đền và sự việc còn được ghi lại trên bia
trong đền.
Bước chân vào tìm hiểu ngôi
đền, thầy Hiệp đã ấn tượng bởi câu chuyện về lời thề trung hiếu đặc biệt của các
bậc vua quan xưa trước thần Trống Đồng: “Làm
con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh chu diệt”. Đi sâu hơn nữa, theo
thần tích của đền, vị thần Trống Đồng là người đã giúp vua Hùng Quốc Vương đánh
giặc Hồ Tôn. Cũng ở đây còn lưu được một vế đối đặc biệt về việc 3 dòng họ Trịnh,
Lưu, Hà đã kiến lập đất đai dưới thời Hùng Vương:
Vật
lưu Bách Việt tổ
Kiến
ấp Trịnh Lưu Hà.
Người được coi là “Bách
Việt tổ” theo Ngọc phả Hùng Vương chính là vua Hùng Quốc Vương. Di vật của thời
kỳ này là những chiếc Trống đồng to lớn, tinh xảo, minh chứng rõ ràng nhất cho
một thời kỳ huy hoàng của dân tộc Việt trên khắp nẻo Đông Nam Á. Dấu vết về sự
xuất hiện các dòng họ Việt và di vật văn hóa ở đền Đồng Cổ hoàn toàn khớp với
những gì đã ghi trong Hùng Vương Thánh Tổ
Ngọc phả ở Phú Thọ.
Chính điện
đền Đồng Cổ ở Đan Nê, Thanh Hóa.
3. Những ghi chép lưu truyền ngàn đời
trong Ngọc phả Hùng Vương cùng với những di tích còn lại ở nhiều nơi trên đất
Việt là những bằng chứng xác thực về sự xuất hiện các dòng họ người Việt từ rất
sớm, vào thời kỳ mở đầu nước Văn Lang của các vua Hùng, cách nay quãng 3.000
năm. Đây là thời kỳ mà xã hội Việt bước vào chế độ phong kiến phân quyền,
khi mà mỗi công thần hay hoàng thân quốc thích được phân đất kiến lập một khu
“thực ấp”, hay còn được gọi là một nước chư hầu. Con cháu của các vị công thần
lập quốc này được thừa hưởng chức vị và quyền lực từ cha ông, hình thành các
dòng họ phụ đạo lưu truyền.
Di sản của mỗi dòng họ
do đó không chỉ ở tên gọi của họ, mà còn là quyền lực trong xã hội và tư liệu sản
xuất cơ bản xưa là đất đai. Những dòng họ lớn là những dòng họ của những đại
công thần thời dựng nước. Việc tìm về cội nguồn các dòng họ cũng là nhìn nhận lại
cho đúng công lao của các bậc tiền nhân với dân tộc, với quốc gia.
Thay cho lời tạm kết về
các dòng họ thời Hùng Vương xin chép lại đôi dòng câu đối ở đình Bảo Đà, một
nơi thờ các vua Hùng ở Việt Trì, Phú Thọ, nguyện sẽ tiếp nối bước tiền nhân, để
con cháu được mở mang, núi sông muôn đời bền vững:
Sổ
thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm
Thập
ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Dịch:
Mấy
ngàn năm phụ đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp
Mười
lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.
Minh Thi
Bài đăng trên báo Lao động cuối tuần số 29 (17-19.7.2020)https://laodong.vn/van-hoa-giai-tri/tim-ve-nguon-goc-tram-ho-nguoi-viet-thoi-hung-vuong-820140.ldo?fbclid=IwAR2dK4jzvngZjoBeudAoWSNfSi1BwsvpUgfVcCECBJHlFgBYFGksEfcLku4
No comments:
Post a Comment