Hàng trăm con chữ rờ rỡ uẩn súc, bao ngữ nghĩa lấp lánh tâm thức Việt
trên những hoành phi câu đối giăng từ Đền Hạ Đền Trung Đền Thượng Đền
Giếng... trong khu Di tích Đền Hùng. Chữ mới nhất cũng tròm trèm gần thế
kỷ. Bao bận được kính cẩn quan chiêm như thế mà vẫn thấy khó dứt mắt...
Ngôi Đền thiêng kết cấu hình chữ Vương tọa lạc trên
Nghĩa Lĩnh ở độ cao vừa phải 175 mét gồm các quần thể Đền Hạ, Trung,
Thượng đã được bao năm rồi nhỉ? Thời vua Đinh Tiên Hoàng thế kỷ thứ X
cho viết thần tích Đền Hùng nhưng nơi thờ tự vua Hùng đã có từ lẩu lâu.
Và thời gian nào Hùng Vương Cơ Miếu (miếu thờ cơ
nghiệp Vua Hùng) từ làng Trẹo (đọc chệch từ Triệu) ở chân núi Hy Cương
được ai, triều nào dời sang bên Nghĩa Lĩnh?
Tôi nghĩ đến cái lần giặc Minh hung bạo triệt phá Đại
Việt trong đó có việc làm cỏ Đền Hùng. Thần tích rõ là bị hủy. Nhưng còn
bao câu đối hoành phi? Chắc cũng cùng chung số phận?
May mà thời Lê Trịnh, Đền lại được phục dựng, lại nguy
nga! Nhưng xôm tụ bàn thờ Quốc Tổ được như bây giờ phải tính đến công
sức của dân 18 tỉnh thành miền Bắc đâu như năm 1917 hay 1918 chi đó, đã
có một cuộc lạc quyên lớn góp được hơn 6.000 đồng bạc Đông Dương để sửa
sang tu bổ Đền Hùng.
Uẩn súc ngữ nghĩa
Khá khen cho cái lần trùng tu năm 1917 quy mô ấy. Việc
đầu tiên phải tính đến cái cổng chính Đền Hùng? Xây mới hay trùng tu?
Đau cái nỗi, cận gần là thế mà chưa tìm ra những biên chép cụ thể. Nhưng
có lẽ từ thời điểm đó, con dân nước Việt hành hương, mới đến cổng thôi,
chưa nhịp bước leo những Hạ, Trung, Thượng mà có cảm giác như đương
chạm mặt trước Bàn thờ Quốc Tổ?
Ngước lên sừng sững bức hoành là 4 chữ trên nóc cổng
Cao sơn cảnh hành (Núi cao, ngẩng trông. Đường rộng ta bước). Vế đối hai
bên như lời diễn giải ý nghĩa của bức đại tự:
Thác thủy khai cơ, tứ cố
sơn hà qui bản tịch
Đăng cao viễn vọng quần phong la liệt tự nhi tôn.
(Mở lối đắp nền, bốn phía non sông qui một mối
Lên cao nhìn rộng, núi
non trùng điệp tựa đàn con)
Khéo là thứ đại tự ấy. Núi cao ta ngẩng đầu trông/
Đường rộng ta bước đất thiêng Đền Hùng. Có người đã mạo muội diễn nôm 4
chữ ấy. Mạo muội bởi 4 chữ này lấy từ Kinh Thi. Cao sơn ngưỡng chi, cảnh
hành hành chi. Duyên do ông Nhan Hồi học trò Khổng Tử, ca ngợi đạo của
Thày mình:
Ngưỡng chi di cao, toàn chi di kiên, chiêm di tại tiền, hốt
yên tại hậu
(Càng ngẩng trông, càng thấy cao, đục đẽo vào càng thấy
cứng, vừa thấy đằng trước, thoắt đã đằng sau).
Thôi thì những cao thâm này khác của tích Tàu, nếu tán
ra thì còn dài. Nhưng lần sửa sang xây cất ấy, những hiệp thợ Việt tuân
người mách bảo, chỉ chăm chút có 4 chữ mà thôi. Cao sơn cảnh hành. Ngẩng
trông lên là ân đức của Vua Hùng. Dưới chân là đường rộng như cơ đồ cơ
nghiệp vua Hùng đã mở mang cho tộc Việt!
Nhớ bận ấy lên Đền, tình cờ đụng được một vị áo chùng,
khăn đóng, giọng hào sảng đương cắt nghĩa cho các người cùng đi ngữ
nghĩa uyên thâm của đôi câu đối mà nhằm vào hai chữ "thác thủy" khởi đầu
vế đối. "Thác" nghĩa là nâng lên, là tạo dựng. Rõ rồi. Còn "thủy" có bộ "nữ "
bên trái và chữ "thai" bên phải tượng trưng cho phụ nữ nghĩa là sinh nở.
Như vậy, thác - sức lực tạo dựng nên hiểu đó là Cha.
Thủy – sinh nở, tức là Mẹ! "Thác thủy" là lấy tích Cha Lạc Long Quân và Mẹ
Âu Cơ sinh trăm con tỏa khắp nơi nhưng đều quy về một mối tức gốc tổ!
Lại cũng khá khen cho tác giả câu đối! Dùng chữ nghĩa
sao đó khiến hậu thế nổi... hứng có thể sáng tạo ra những ngữ nghĩa
không ngờ? Đã đành Thủy do hai chữ "nữ" và "thai" hợp thành. Nhưng oái oăm,
Thai ở đây không phải là... thai sản.
Thủy càng chả phải là sinh nở mà vẫn ngữ nghĩa của nó
là mới. Thác thủy khai cơ là dựng nền mở lối mới vậy! Nhưng vị nọ với
tâm thế luôn đăm đắm hướng về nguồn cội, cắt nghĩa như thế cho đám con
Lạc cháu Hồng nghe, áng chừng thú vị và cũng lọt tai đấy chứ nhỉ?
Cũng như bức hoành Triệu Tổ Nam Bang hoặc Nam Việt
Triệu Tổ (thứ khắc thứ đắp) người thuyết minh hướng dẫn đã dõng dạc như
trong vài ba cuốn sách hẳn hoi là Tổ muôn đời của nước Nam.
Nghe có vẻ thuận và lọt tai? Nhưng chuẩn vẫn phải gọi
đúng cái tên là Tổ đầu tiên của nước Nam! Bởi chữ Triệu được khắc được
đắp có một nghĩa duy nhất là bắt đầu là ngay mới. Triệu ở đây không phải
là số đếm để mà muôn hay vạn chi cả!
Lần ấy ghé Hùng Vương Cơ Miếu, tôi chợt thấy một chữ lạ trong đôi câu đối.
Thiên thư định phận, chính thống triệu minh đô, Bách
Việt sơn hà tri hữu tổ
Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành túy miếu,
tam giang khâm đới thượng triều tôn.
(Sách trời đã định, chính thống dựng
kinh đô Bách Việt non sông có Tổ
Núi sáng khí thiêng, cố cung thành
miếu mạo, ba sông quanh quất hướng chầu vua).
Ba sông ở đây là sông Lô,
sông Thao, sông Đà.
Chữ lạ ấy là chữ Bách!
Đã đành chữ, ngữ nghĩa của câu đối uẩn súc, thâm hậu.
Tác giả đã hào sảng cái mạch chủ quyền độc lập quốc gia bất khả xâm phạm
trong bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt khi rinh hẳn tổ hợp từ định phận
thiên thư về cho một vế đối ở bàn thờ Quốc Tổ. Nhưng trong câu đối, chữ
Bách viết khá lạ. Cứ băn khoăn mãi cái nỗi, không hiểu sao tác giả câu
đối lẫn người thợ khắc chữ lại không dùng chữ Bách mà người thạo tiếng
Hán ai cũng rành?
Chữ bách ở đây được viết, có thể nói là cường điệu và ở
dạng tháu. Tháu đây không có nghĩa là lối viết thảo, giản lược. Mà chữ
bách nom từa tựa như chiếc rìu Việt cổ. Hình rìu Việt lại có đầu rìu
cuộn lại hình sóng nước, hình rắn và có đầu rắn. Kiểu viết như thế này
khiến ta liên tưởng ngay tới Bách Việt. Chao ôi, nội đôi câu đối này
thôi, và cũng nội một kiểu viết chữ Bách rờ rỡ nghiêm ngắn đĩnh đạc trên
bàn thờ Quốc Tổ kia đã toát lên âm hưởng hùng khí chủ quyền quốc gia
bao đời của giống nòi Lạc Việt
Hình như chữ Bách này khi chuyển câu đối từ Hùng Vương
Cơ Miếu sang Đền Thượng ở Nghĩa Lĩnh đã được kíp thợ khắc bằng chữ bách
thường thấy, thường viết?
(Một dịp thích hợp, chúng tôi sẽ trở lại chữ
Bách này trong một bài viết về hòn đá lạ - thực chất là một đạo bùa
đang đặt ở Đền Thượng từng xôn xao cư dân mạng lâu nay. Đó là chữ Bách
trong hàng chữ Bách Giải Tiêu Tai Phù - bùa giải tai ách - viết trên một
mặt hòn đá)
Một dạo người viết bài này lấy làm tâm đắc ngữ nghĩa
đôi câu đối tại Đền Thượng do chính nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương,
người trai trưởng thi sĩ Tản Đà trực tiếp cắt nghĩa. Câu ấy là:
Thử địa
thử sơn, Nam quốc kỷ
Ngô vương ngô thổ, Bắc thần tôn.
(Đất này núi này
nước Nam dấy nghiệp
Vua ta nước ta khiến phương Bắc cũng phải nể vì).
Lần ấy trong buổi trà dư tửu hậu với mấy ông thạo chữ ở
Hà Thành, mạo muội hé ra cái điều sở đắc ấy, một ông cười đại ý, cụ
Nguyễn Khắc Xương nghĩ thế cũng là được! Nhưng cái sự thể nó không hẳn
thế...
Không hẳn là thế nghĩa là cứ chăm chắm nghĩa của Bắc
thần tôn thì dễ lạc sang nghĩa khác. Bắc thần tôn thường hiểu và dịch là
phương Bắc, Bắc quốc. Bởi phải hiểu và dịch như thế thì mới đối được
với vế bên là Nam quốc. Phải quá đi rồi!
Hơn nữa, chữ Thần ở đây (khác chữ thần trong thánh
thần buổi sớm, thần chỉ các quan...) gồm bộ Miên, dưới là chữ Thìn. Thần
cư là nơi vua ở. Thần chương là văn chương của vua. Chữ Tôn ở đây là
tôn trọng nể vì!
Nhưng Bắc thần tôn ở đây phải lấy Luận Ngữ ra mà giải.
Đó là câu trong chương Vi Chính. Có câu “Tử viết: Vi chính dĩ đức. Thí
như Bắc thần cư kỳ sở nhi chúng tinh củng chi”
(Khổng Tử nói rằng, người
làm chính trị, cầm quyền trị dân mà dùng Đức để thi hành chính sự thì
dân chúng đều tuân phục tựa như ngôi sao Bắc thần, ở một chỗ mà mọi vì
sao khác đều phải tuân chầu!)
Vậy đôi câu đối nên hiểu:
Đất này núi này đã được ghi
chép là của nước Nam
Vua ta trị vì bằng Đức nên dân ta tôn kính như muôn
sao hướng về Bắc Đẩu.
Hiếm hoi tác giả
Chữ Hùng Vương Tổ Miếu ở Đền Trung. Ảnh: Xuân Ba.
Bao bận ghé Đền mà vẫn cứ bẵng đi cái việc hỏi ông thủ
từ Nguyễn Xuân Các, Trưởng Ban Khu Di tích Đền Hùng, sơ bộ thống kê thì
Khu Di tích Đền Hùng có bao nhiêu hoành phi câu đối, bao nhiêu là Hán?
là Nôm? Là quốc ngữ? Lại nữa, tác giả những bức hoành phi câu đối ấy là
ai vậy?
Quả là một điều khiếm khuyết lẫn tiếc xót, như nét mặt
rầu rĩ của ông thủ từ khi ắng lặng đi một hồi rồi mới khẽ khàng rằng,
đến tận bây giờ, mặc dầu đã hết sức cố gắng bươn bả này khác nhưng nhà
Đền vẫn chưa biết tác giả những chữ nghĩa ấy là ai? Được viết và dâng
cúng vào Đền Hùng thời gian nào?
Khiếm khuyết ấy ở thời nào vậy? Cứ lẩn thẩn, khi chế
tác, các hiệp thợ tiếc chi một dòng lạc khoản (tác giả, triều nào ngày
lành trọng đông hay trọng xuân hoặc sơ hạ) thì hậu thế tường ngay! Hoặc
giả có một cuốn giấy bổi hay xuyến chỉ chép lại tường tận rồi giao cho
thủ từ.
Hay là có những cuốn ấy nhưng qua bao tao loạn biến cố,
nó mất đi rồi? Than ôi, bây chừ hậu sinh con cháu về Giỗ Tổ đành ngậm
ngùi cảm nhận ngữ nghĩa qua người thuyết minh hoặc các bảng biểu treo
trên tường.
Không biết tác giả nhưng thầm đoán phải là những đấng
văn chương, các bậc túc nho hay chữ hoặc cao sang hơn phải là chữ nghĩa
của các đấng quân vương. Thêm nữa, việc tuyển chọn chữ nghĩa để dâng bàn
thờ Quốc Tổ phải từng được tiến hành rất cẩn trọng thì mới chất lượng
thế!
Nói
vô danh, khuyết danh cả cũng chả phải! Có đấy. Nhưng hiếm hoi làm sao,
nghển ngó mỏi cổ cũng chỉ được biết ở Hùng Vương Cơ Miếu có ba bức
hoành. Một của vua Duy Tân (Nam quốc sơn hà), hai bức của vua Khải Định
(Quyết sơ sinh dân - Dân sinh là điều tiên quyết và Tử tôn bảo chi - Con
cháu nhớ giữ gìn).
Và cũng hiếm hoi ở Đền Trung có đôi câu đối của Chúa
Trịnh Sâm:
Vấn lai dĩ sự tu vi sử
Tế nhận như đồ dục mệnh thi
(Hỏi lại
việc xưa nên chép sử
Ngắm xem phong cảnh muốn đề thơ).
Sở dĩ biết tác
giả là Trịnh Sâm bởi hậu thế căn cứ vào Bản dập thủ cảo của Tĩnh vương
Trịnh Sâm trên núi Hùng được treo ở Bảo tàng Viễn Đông Bác cổ trước
1945, và chụp đăng trên tạp chí BEFFO,1937.
Chúa có câu đối, vua cũng chả kém. Thơ của vua Lê Hiển
Tông (bố vợ của Quang Trung) về Đền Hùng:
Mộ cũ ở lưng đồi
Đền thờ trên sườn núi
Muôn dân tới phụng thờ
Khói hương còn mãi mãi...
Nhưng thơ vua chỉ lưu trong sách, trên Đền không thấy ghi!
Mộ cũ ở lưng đồi
Đền thờ trên sườn núi
Muôn dân tới phụng thờ
Khói hương còn mãi mãi...
Nhưng thơ vua chỉ lưu trong sách, trên Đền không thấy ghi!
Cũng cần nói thêm, chính sử còn chép rõ giai đoạn vua
Lê chúa Trịnh đã có sự quan tâm đặc biệt và vương triều này đã góp phần
lớn xây dựng lại đền Hùng. Năm 1407 nhà Minh phá trụi thùi lụi Đền Hùng.
Khi nước độc lập, triều Lê sơ chiêu dân lập lại làng.
Vua Lê Thánh Tông xây lại đền Trung, đền Hạ, như vậy
hầu như hoàn thành xây dựng lại ba đền có từ thời Lý Trần, Tiếp đó xây
lại đền Giếng. Năm 1600, thời vua Lê Kính Tông, chúa Trịnh Tùng sai quan
thị độc Nguyễn Trọng sao lại tài liệu về đền Hùng. Năm 1727, chúa Trịnh
Cương sai Hoàng Nghĩa Chử xây dựng ở Hy Cương tức đền Hùng. Cuối thế kỷ
XVIII, vua Lê, chúa Trịnh đề thơ ca ngợi sự nghiệp vua Hùng và cảnh đẹp
núi Hùng.
Và cũng hiếm hoi câu đối Nôm? Hiện tạc ở Lăng Vua Hùng:
Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà non nước vẫn quay về Đất Tổ
Văn
minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc giống nòi còn biết nhớ Mồ Ông
Khá hay. Nghe nói của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu không biết có phải? Còn
quốc ngữ, hình như hiếm hoi mỗi câu. Mà cũng phải trước năm 1945 bởi hồi
ấy còn Xứ Bắc Kỳ, Trung và Nam Kỳ?
Con cháu ba kỳ thăm mộ tổ
Non sông
muôn thuở rạng nòi Tiên.
Biên ra như thế không có nghĩa là khuyến khích việc cần
khẩn trương cúng thêm chữ nghĩa Hán Nôm lẫn quốc ngữ lên bàn thờ Quốc
Tổ! Hoàng phi lẫn câu đối Đền Hùng chừng như cũng đã rậm đã dày?
Thôi cứ để tiếp tục lẫn trường tồn cái mạch uẩn súc
thoang thoáng như hiện trạng cho thuận mắt! Bởi cứ nghĩ đến những chữ
nghĩa trên các hoành các câu đối chăng giăng khắc in một cách tùy tiện,
sai be bét, lòe loẹt và ngây ngô ở không ít các đình chùa di tích đã
thấy hai hãi!
Sao lại tài liệu về Đền Hùng! Gặp được dòng này trong
sử cứ ngỡ như đang vớ được cuốn vở ghi danh tên các tác gia cúng tiến
chữ nghĩa vào Đền Hùng mà thời Lê Trịnh từng làm!
Và không phải chỉ thời ấy làm việc đó? Xa hơn cũng như
gần hơn? Dẫu thất tán nhưng người nhà Đền lẫn các nhà chức việc hình như
chưa ráo riết và siêng năng thực thi cái việc chắp nối sưu tra từ ký ức
trong dân gian lẫn việc nối mạng với giới nghiên cứu cùng các nhà bảo
tàng trong ngoài nước?
Phập phồng một ngày đẹp giời, hậu thế hành hương Đền
Hùng khi chiêm quan chữ nghĩa trên các hoành phi câu đối có được cảm
khoái biết thêm được các tác giả cùng lý lịch trích ngang và hoàn cảnh
ra đời của những chữ nghĩa ấy!
Đêm Mồng Mười tháng Ba năm Tỵ
Xuân Ba
Ngước lên sừng sững bức hoành là 4 chữ trên
nóc cổng chính Đền Hùng “Cao sơn cảnh hành” (Núi cao, ngẩng trông.
Đường rộng ta bước). “Cao sơn cảnh hành”. Ngẩng trông lên là ân đức của
Vua Hùng. Dưới chân là đường rộng như cơ đồ cơ nghiệp vua Hùng đã mở
mang cho tộc Việt!
Bài và ảnh theo báo giấy Tiền phong
No comments:
Post a Comment