Gia Lâm xã thần tích bi ký
嘉林社神跡碑記
漢昭帝時累朝一位大王譜籙(艮支部上等)國朝禮部正本
昔雄王山原聖祖啟運應圖二十年餘雄王建國青山萬里創雄都宫殿之基碧水一泓開聖帝明王之道以度物濟人統十五部號之百越為肈祖焉
詩云
初開南越自涇陽一統山河十八王十八世傳千古在億年香火億年芳
却説
粤昔西漢時內地龍編猶屬我國間有鄧公諱 運其先人繼世承資蔭配本郡人謝氏諱謹傳家詩禮累世簪纓所謂當門而配公課童頗精醫術樂能行善事賑資救苦無一人不遂其生無一物不寧其养小善亦為十堊不作半點害人休着意毫利己莫私心此地方皆稱其積善之家必有餘慶
公年近六旬謝氏年四十餘然男子尚晚後謝氏夣見蛇精入懷而有孕時(甲午年二月十一日)生下一男天資穎異相貌殊常三歲而知禮義能敬讓聞學而知聽音而審七歲入學經史精通才能武蓺命名曰居士當時士子多嘆服之共稱為聖童公年十八父母皆爼落三年喪畢公潛心墳典教誨士民聞交州教化未明綱疇未叙公循循然善誘之而後民知禮義也南州華風公之功也
民皆暮之共推為州長時漢昭帝命周章為交州太守章聞公教化服人為之疏舉帝大嘉之封列 侯公既受命行縣邑觀民風適至京北道 (古號北江郡)順安府嘉林縣嘉林寨見民風樸陋學術寡聞公乃傳設行在于嘉林寨地頭以教文字
纔得一年民皆慕之值珠崖儋耳蒼梧廣信番禺麓冷七郡商長作亂騷動民生帝聞之咨廷臣疇能了此以為本州太守岑彭舉公德望服人必能安集帝許之命為州守 使平賊
公乃選嘉林寨得家下二百餘移檄諸郡縣來附者以萬数刻日直擣九真命将士分屯堅守不得挑戰因遣文吏移檄論之以信義示之以祸福賊聞之感悟束甲來降七郡告平公遂振旅還州府(即龍編地)
自公為太守刑罰清省民皆安業公暇復詣嘉林行在曉人以恩誼民皆拜謝請因此舍為後為祀所公許之日卽遂並囘州府居之
及至哀帝時間有王莽亂公将兵守開公兵方至安南不意漢兵猝至公曰漢兵方拒莽何故往南.使閉關不約漢将大忿破關門直入境.公見漢兵盛至卽引兵退囘州府無何漢兵夜至重園公騎馬拒戰解得園出至龍編處仰天而嘆曰人臣事君必死無二不圖至此知我者.其天乎遂爼于龍編地不見卽化矣(時八月初十日)
一項間江濤湧沸蛟龍送出漢兵皆驚遂引去以事聞之帝遣使諭祭于龍編地勅封福神準許府民立廟祀之餘如九真南海日南海陽加林等處常被公教化者皆迎美字囘民奉事
及至平帝聞公名績表見於漢有功遣使勅封一封濟世護國居士大王
曁至陳太宗時寇元來侵京城被陷陳國俊奉命祈禱百神各諸祠經一日適至京北順安府嘉林縣嘉林區(陳時為庄)夜宿神祠祈神陰扶討賊俟平勅封上等神
夜至四更末國俊公乃朦朧睡去忽夢見一老翁上頭白髮從此而來自稱居士靈神謂曰我北朝正氣南國遺踪學富五車直擬青雲得路聞将軍東往平冦自願從乃陰扶護法立功勿可憂之神人言訖没变矣項間将公醒出暗想夢中顯有靈神所助定明日拜謝返囘京國已而出戰於白藤江忽然天地晦冥風濤湧出帥将帥兵神靈發動蛇蛟向扶於水上陳國公乃刀戰一陣馬兒大敗斬得正将與裨将數萬頭血可船行屍如山積自此
盡除元冦陳國公反囘奏于太宗曰元賊早平亦賴於神助太宗乃加封陰扶一位當境城隍護法居士大王興國同休永為𢗝武欽哉
却説自以而後稔着靈應故多有帝王加封美字
迨至黎太祖起義平明柳昇及得天下太祖乃加封一位普濟剛毅英靈勅旨頒嘉林庄重修廟殿以奉祀之猗歟休哉
一奉開生化各节與諱字切禁運謹居士準許嘉林庄奉祀
一生神二月十一日正例禮用上齊盤下黑猪𥸷酒唱歌三日卽止
一化神八月初十日正例禮用上齊盤下牛猪𥸷酒白方圓餅
一例慶賀祈福三月初十日禮用上齊盤下随宜唱歌十日卽止
洪福元年孟春吉日翰林禮院東閣大學士臣阮炳奉撰正本
皇朝永祐六年仲秋吉日管監百靈知殿雄嶺少鄉臣阮賢再遵舊正本
Phiên âm:
Gia Lâm xã thần tích bi kí
Hán Chiêu Đế thời lũy triều nhất vị đại vương phổ lục (cấn chi bộ thượng đẳng) quốc triều lễ bộ chính bản.
Tích Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ khải vận ứng đồ nhị thập niên dư. Hùng Vương kiến quốc thanh sơn vạn lí sáng hùng đô cung điện chi cơ, bích thủy nhất hoằng khai thánh đế minh vương chi đạo. Dĩ độ vật tế nhân thống thập ngũ bộ hiệu chi Bách Việt vi triệu tổ yên.
Thi vân:
Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương
Nhất thống sơn hà thập bát vương
Thập bát thế truyền thiên cổ tại
Ức niên hương hỏa ức niên phương.
Tức thuyết:
Việt tích Tây Hán thời nội địa Long Biên do thuộc. Ngã quốc gian hữu Đặng Công húy Vận, kỳ tiên nhân kế thế thừa tư ấm, phối bản quận nhân Tạ Thị húy Cẩn, truyền gia thi lễ lũy thế trâm anh, sở vị đương môn nhi phối. Công khóa đồng pha tinh y thuật, lạc năng hành thiện sự, chẩn tư cứu khổ, vô nhất nhân bất toại kỳ sinh, vô nhất vật bất ninh kỳ dưỡng, tiểu thiện diệc vi thập ác bất tác bán điểm hại nhân, hưu trứ ý hào lợi kỷ mạc tư tâm, thử địa phương giai xưng kỳ tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh.
Công niên cận lục tuần, Tạ Thị niên tứ thập dư nhiên nam tử thượng vãn. Hậu Tạ Thị mộng kiến xà tinh nhập hoài nhi hữu dựng. Thời (Giáp Ngọ niên nhị nguyệt thập nhất nhật) sinh hạ nhất nam, thiên tư dĩnh dị, tướng mạo thù thường, tam tuế nhi tri lễ nghĩa, năng kính nhượng, văn học nhi tri, thính âm nhi thẩm. Thất tuế nhập học kinh sử tinh thông, tài năng vũ nghệ mệnh danh, viết cư sĩ đương thời. Sĩ tử đa thán phục chi Công, xưng vi Thánh đồng. Công niên thập bát, phụ mẫu giai trở lạc.
Tam niên tang tất, Công tiềm tâm phần điển giáo, hối sĩ dân. Văn Giao Châu giáo hóa vị minh, cương trù vị tự. Công tuần tuần nhiên thiện dụ chi nhi hậu dân tri lễ nghĩa dã. Nam Châu hoa phong công chi công dã. Dân giai mộ chi cộng thôi vi Châu trưởng.
Thời Hán Chiêu Đế mệnh Chu Chương vi Giao Châu thái thú. Chương văn Công giáo hóa phục nhân vi chi sớ cử đế đại gia chi phong Liệt hầu. Công ký thụ mệnh hành huyện ấp, quan dân phong thích chí Kinh Bắc đạo (cổ hiệu Bắc Giang quận) Thuận An phủ Gia Lâm huyện Gia Lâm trại, kiến dân phong phác lậu, học thuật quả văn. Công nãi truyền thiết hành tại vu Gia Lâm trại địa đầu dĩ giáo văn tự. Tài đắc nhất niên dân giai mộ chi.
Trị Châu Nhai Đam Nhĩ Thương Ngô Quảng Tín Phiên Ngu Lộc Lĩnh thất quận thương trưởng tác loạn, tao động dân sinh. Đế văn chi tư đình thần trù năng liễu thử dĩ vi bản châu Thái thú. Sầm Bành cử Công đức vọng phục nhân, tất năng an tập. Đế hứa chi mệnh vi châu thú sử bình tặc.
Công nãi tuyển Gia Lâm trại đắc gia hạ nhị bách dư, di hịch chư quận huyện lai phụ giả dĩ vạn sổ. Khắc nhật trực đảo Cửu Chân, mệnh tướng sĩ phân truân kiên thủ, bất đắc thiêu chiến. Nhân khiển văn lại di hịch luận chi dĩ tín nghĩa kì chi dĩ họa phúc. Tặc văn chi cảm ngộ thúc giáp lai hàng. Thất quận cáo bình. Công toại chấn lữ hoàn châu phủ (tức Long Biên địa).
Tự công vi thái thú hình phạt thanh tỉnh, dân giai an nghiệp. Công hạ phục nghệ Gia Lâm hành tại hiểu nhân dĩ ân nghị. Dân giai bái tạ, thỉnh nhân thử xá vi hậu vi tự sở. Công hứa chi nhật tức toại tịnh hồi châu phủ cư chi.
Cập chí Ai Đế thời gian hữu Vương Mãng loạn. Công tương binh thủ khai công binh phương chí An Nam bất ý Hán binh thốt chí. Công viết Hán binh phương cự Mãng hà cố vãng Nam, sử bế quan bất ước. Hán tướng đại phẫn, phá quan môn trực nhập cảnh. Công kiến Hán binh thịnh chí tức dẫn binh thối hồi châu phủ. Vô hà Hán binh dạ chí trọng viên. Công kị mã cự chiến giải đắc viên xuất, chí Long Biên xứ ngưỡng thiên nhi thán viết: Nhân thần sự quân tất tử vô nhị bất đồ chí thử tri ngã giả, kì thiên hồ, toại trở vu Long Biên địa bất kiến tức hóa hĩ (thời bát nguyệt sơ thập nhật).
Nhất hạng gian giang đào dũng phí giao long tống xuất. Hán binh giai kinh toại dẫn khứ. Dĩ sự văn chi Đế khiển sứ dụ tế vu Long Biên địa, sắc phong phúc thần, chuẩn hứa phủ dân lập miếu tự chi dư như Cửu Chân Nam Hải Nhật Nam Hải Dương Gia Lâm đẳng xứ, thường bị Công giáo hóa giả giai nghênh mĩ tự hồi dân phụng sự.
Cập chí Bình Đế văn Công danh tích biểu kiến vu Hán hữu công, khiển sứ sắc phong Nhất phong Tế thế Hộ quốc Cư sĩ Đại vương.
Kỵ chí Trần Thái Tông thời khấu Nguyên lai xâm, kinh thành bị hãm. Trần Quốc Tuấn phụng mệnh kì đảo bách thần các chư từ kinh nhất nhật, thích chí Kinh Bắc Thuận An phủ Gia Lâm huyện Gia Lâm khu (Trần thời vi trang) dạ túc thần từ, kì thần âm phù thảo tặc sĩ bình sắc phong thượng đẳng thần.
Dạ chí tứ canh mạt Quốc Tuấn Công nãi mông lông thụy khứ, hốt mộng kiến nhất lão ông thượng đầu bạch phát tòng thử nhi lai, tự xưng Cư sĩ linh thần, vị viết: Ngã Bắc triều chính khí, Nam quốc di tung, học phú ngũ xa trực nghĩ thanh vân đắc lộ. Văn tướng quân Đông vãng bình khấu, tự nguyện tòng nãi âm phù hộ pháp lập công, vật khả ưu chi thần nhân ngôn cật một biến hĩ hạng gian.
Tướng Công tỉnh xuất ám tưởng mộng trung hiển hữu linh thần sở trợ, định minh nhật bái tạ, phản hồi kinh quốc dĩ nhi xuất chiến vu Bạch Đằng giang. Hốt nhiên thiên địa hối minh, phong đào dũng xuất, suất tướng suất binh thần linh phát động xà giao hướng phù vu thủy thượng. Trần Quốc công nãi đao chiến nhất trận Mã Nhi đại bại, trảm đắc chính tướng, dữ tì tướng sổ vạn đầu huyết khả thuyền hành thi như sơn tích tự thử. Tận trừ Nguyên khấu Trần Quốc Công phản hồi tấu vu Thái Tông viết Nguyên tặc tảo bình diệc lại vu thần trợ. Thái Tông nãi gia phong Âm phù Nhất vị Đương cảnh Thành hoàng Hộ pháp Cư sĩ Đại vương Hưng quốc Đồng hưu Vĩnh vi Kỳ vũ khâm tai.
Tức thuyết: Tự dĩ nhi hậu nhẫm trứ linh ứng, cố đa hữu đế vương gia phong mĩ tự.
Đãi chí Lê Thái Tổ khởi nghĩa bình Minh Liễu Thăng, cập đắc thiên hạ. Thái Tổ nãi gia phong Nhất vị Phổ tế Cương nghị Anh linh, sắc chỉ ban Gia Lâm trang trùng tu miếu điện dĩ phụng tự chi y dư hưu tai.
Nhất phụng khai sinh hóa các tiết dữ húy tự thiết cấm Vận Cẩn Cư sĩ, chuẩn hứa Gia Lâm trang phụng tự.
Nhất sinh thần nhị nguyệt thập nhất nhật chánh lệ lễ dụng thượng trai bàn, hạ hắc trư tế tửu xướng ca tam nhật tức chỉ.
Nhất hóa thần bát nguyệt sơ thập nhật chánh lệ lễ dụng thượng trai bàn hạ ngưu trư tế tửu bạch phương viên bính.
Nhất lệ khánh hạ kì phúc tam nguyệt sơ thập nhật lễ dụng thượng trai bàn hạ tùy nghi xướng ca thập nhật tức chỉ.
Hồng Phúc nguyên niên mạnh xuân cát nhật. Hàn lâm lễ viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng soạn chính bản.
Hoàng triều Vĩnh Hữu lục niên trọng thu cát nhật. Quản giám bách linh tri điện Hùng lĩnh thiểu hương, thần, Nguyễn Hiền tái tuân cựu chính bản.
Dịch nghĩa:
Bia ký thần tích xã Gia Lâm
Bản phả lục một vị đại vương công thần triều Hán Chiêu Đế (chi Cấn bộ thượng đẳng), Bộ Lễ quốc triều chính bản.
Xưa Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ khai vận mở đồ hơn hai mươi năm. Vua Hùng lập nước núi xanh vạn dặm, xây kinh đô Hùng, dựng nền cung điện, nước biếc thăm thẳm, bắt đầu đạo đế thánh vua minh, giúp vật giúp dân, thống nhất 15 bộ lấy tên là Bách Việt, là tổ tiên đầu tiên vậy.
Có thơ rằng:
Ban sơ Nam Việt từ Kinh Dương
Thống nhất núi sông mười tám vương
Mười tám đời truyền ngàn xưa đó
Vạn năm hương lửa vạn năm hương.
Truyền rằng:
Xưa nước Việt ta, Long Biên còn thuộc về Tây Hán. Bấy giờ có ông họ Đặng, tên húy là Vận, tổ tiên ngày trước đã được ban tước phong, đời nay kế thừa gia tài phúc ấm. Ông lấy vợ người bản quận, họ Tạ, tên húy là Cẩn, con nhà thi lễ, dòng dõi trâm anh, hai người rất xứng đôi. Thủa nhỏ ông rất tinh thông y thuật, thích làm điều thiện, vốn tính hay ban chẩn, giúp đỡ người nghèo, không ai là không giúp đỡ sinh sống, không vật nào bệnh tật mà không chăm dưỡng, từ việc nhỏ đến việc ác lớn đều không phạm, không có ý tư lợi cá nhân, được người địa phương đều nói là tích thiên thì gia đình sẽ gặp nhiều điều phúc.
Năm ông gần 60 tuổi, Tạ Thị đã ngoài 40 mà chưa có con trai. Về sau Tạ Thị nằm mơ thấy một con rắn tinh nhập vào mà có thai. Vào ngày 11 tháng 2 năm Giáp Ngọ, bà sinh được một cậu con trai, tướng mạo khác thường, thiên tư kỳ lạ. Năm lên 3 tuổi đã biết lễ nghĩa, thường hay kính nhường, theo học mà hiểu, nghe nhạc biết thẩm thấu. Lên 7 tuổi cho đi học, tinh thông kinh sử, rất giỏi võ nghệ, là một Cư sĩ đương thời. Sĩ tử ai nấy đều thán phục và gọi Ông là “Thánh đồng” (Thánh trẻ con). Năm 18 tuổi, cha mẹ qua đời. Ba năm phục tang xong, trong lòng ông thầm nghĩ phải lấy điển lễ lớn để dặn dạy sĩ dân.
Bấy giờ dân Giao Châu học hành chưa thấu, tam cương, cửu trù chưa biết thứ bậc. Ông liền thuận theo tự nhiên khuyên bảo những điều tốt lành. Nhờ đó mà dân biết được lễ nghĩa. Phong cách tốt đẹp của Nam châu có được cũng có công của Ông. Cảm phục sĩ dân mến mộ và cùng tôn ông làm Châu trưởng.
Thời Hán Chiêu Đế sai Chu Chương làm Thái thú Giao Châu. Chu Chương nghe danh tiếng Ông giáo hóa quy phục được dân chúng bèn dâng sớ tiến cử lên vua. Vua rất vui mừng, liền phong ông chức “Liệt Hầu”. Ông nhận mệnh đi xuống huyện ấp xem xét cuộc sống dân tình và phong cảnh nơi đây. Đến đạo Kinh Bắc (tên xưa là quận Bắc Giang), phủ Thuận An, huyện Gia Lâm, trại Gia Lâm, thấy phong tục tập quán nơi đây còn lạc hậu, kỹ nghệ còn sơ sài, Ông liền truyền thiết lập một nơi tại trại Gia Lâm để dạy học cho nhân dân. Mới được một năm, nhân dân đều ngưỡng mộ kính phục.
Gặp lúc tù trưởng của 7 quận: Châu Nhai, Đam Nhĩ, Thương Ngô, Quảng Tín, Phiên Ngung, Lộc Lĩnh, (Quế Lâm?) làm loạn, quấy nhiễu dân sinh. Vua nghe tin liền nói đình thần nào có thể dẹp yên sẽ cho làm Thái thú bản châu. Sầm Bành tiến cử ông có đức vọng, quy phục được lòng người, tất sẽ dẹp được. Vua bằng lòng lệnh ông cho cầm đầu châu đi dẹp loạn.
Ông tuyển chọn ở trại Gia Lâm được hơn 200 người, lại truyền hịch đi các quận huyện đến giúp thêm được vài vạn người. Ngay hôm đó tiến thẳng đến Cửu Chân, lệnh cho các tướng sĩ phân ra các đồn để giữ vững, không được khiêu chiến. Nhân đó, sai quan văn truyền hịch, khuyên cho họ hiểu tín nghĩa, bảo họ thấy rõ điều họa phúc. Giặc nghe thấy tỉnh ngộ bỏ binh khí, mũ giáp ra hàng, 7 quận giặc loạn đã được dẹp yên. Ông cho rút quân về phủ (tức đất Long Biên).Từ khi ông làm Thái thú, hình phạt được giảm nhẹ, dân chúng đều được yên ổn làm ăn. Ông lại thong thả đến cung Gia Lâm, dạy cho dân hiểu về ân nghĩa và tình đoàn kết. Nhân dân thấy đó mà cảm phục bèn thưa với Ông “nơi đây ngày nay là học đường, ngày sau làm nơi phụng thờ”. Ông bằng lòng, rồi cùng sĩ tốt về châu phủ.
Tới thời Ai Đế gặp lúc Vương Mãng nổi loạn, Ông mang quân đi trấn giữ cửa ải. Quân ông đi đến An Nam, bất ngờ quân Hán kéo đến. Ông nói, quân Hán đang đánh nhau với Vương Mãng thì cớ gì lại kéo sang nước Nam, liền sai đóng cửa quan không cho vào. Tướng Hán rất tức giận sai phá cửa quan tiến thẳng vào. Ông thấy quân Hán thế rất mạnh, liền rút quân về châu phủ. Chẳng bao lâu quân Hán đến kịp, nhân lúc đêm tối, chúng bủa chặt vòng vây. Ông cưỡi ngựa cự chiến, thoát vòng vây chạy ra ngoài. Đến Long Biên, ông ngửa mặt lên trời mà than rằng: Kẻ bề tôi vì vua mà chết, không có hai lòng, ta đến nông nỗi này có lẽ chỉ có trời mới hiểu vậy! Rồi quay lại không nhìn thấy Long Biên mà hóa (nhằm ngày 10/8). Một dải sông rộng nổi sôi sóng, giao long đưa tiễn. Quân Hán kinh sợ quay đầu chạy.
Việc này đến tai vua, vua sai sứ giả đến cúng tế ở đất Long Biên, phong làm phúc thần, cho người dân trong phủ lập miếu thờ, cùng với các nơi như Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam, Hải Dương, Gia Lâm, là những nơi Ông đã có công giáo hóa nhân dân, đều đón mĩ tự về phụng thờ.
Đến vua Bình Đế nghe sự tích của Ông có công giúp Hán đã sai sứ giả sắc phong Nhất phong Tế thế Hộ quốc Cư sĩ Đại vương.Tới tời Trần Thái Tông, giặc Nguyên xâm phạm, kinh thành bị vây. Trần Quốc Tuấn phụng mệnh cầu đảo bách thần, các đền miếu đều ghé qua, tới đạo Kinh Bắc, phủ Thuận An, huyện Gia Lâm, khu Gia Lâm (thời Trần là trang), ban đêm trú trong miếu thần, cầu thần âm phù dẹp giặc, sẽ phong là thượng đẳng thần.
Tới cuối canh tư Quốc Tuấn Công chợp mắt, bỗng mơ thấy một ông lão đầu bạc trắng tiến đến, tự xưng là Cư sĩ linh thần, nói rằng: ta là chính khí của Bắc triều, vết lưu của nước Nam, học vấn phong phú 5 xe, con đường sự nghiệp có thể coi là thành đạt, nay nghe tướng quân sang Đông dẹp giặc, tự nguyện theo âm phù giúp phép lập công, xin chớ lo lắng. Dứt lời thì biến mất trong không gian bao la. Tướng công tỉnh dậy, nhớ lại giấc mộng có thần thiêng hiển hiện trợ giúp, định ngày lành bái tạ, về lại kinh đô mà xuất chiến ở sông Bạch Đằng. Bỗng thấy trời đất mờ tỏ, gió to sóng lớn xuất hiện, quân tướng xuất hiện, thần linh phát động rắn rồng nổi lên mặt nước. Trần Quốc Công vung đao xông trận, Mã Nhi thua to, chém được tướng cầm đầu, còn tì tướng đầu rơi cả vạn, máu chảy thành sông, thây chất như núi.
Trừ hết giặc Nguyên, Trần Quốc Công về tâu lên Thái Tông rằng dẹp giặc Nguyên là có sự trợ giúp của thần. Thái Tông liền gia phong Âm phù Nhất vị Đương cảnh Thành hoàng Hộ pháp Cư sĩ Đại vương Hưng quốc Đồng hưu Vĩnh vi Kỳ vũ, kính vậy.
Truyền rằng: Từ đó về sau, đều linh thiêng hiển ứng, cho nên được nhiều các bậc đế vương phong thêm mĩ tự.
Đến đời Vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh Liễu Thăng, lấy được thiên hạ, Thái Tổ liền phong thêm: “Nhất vị Phổ tế Cương nghị Anh linh”. Sắc chỉ ban cho trang Gia Lâm trùng tu miếu điện để phụng thờ Ngài một cạnh trọng thể.
Phụng khai các tiết ngày sinh, ngày hóa cùng chữ húy “Vận, Cẩn, Cư sĩ” nhất thiết cấm. Cho phép trang Gia Lâm được phụng thờ.
Nhất sinh Thần ngày 11 tháng 2, theo lệ chính: lễ dùng trên mâm chay, dưới thịt lợn đen, xôi, rượu, ca hát, 3 ngày thì dừng.
Nhất hóa Thần ngày mùng 10 tháng 08, chính lệ lễ dùng trên mâm chay, dưới trâu lợn, xôi, rượu, bánh dày.Nhất lệ khi làm lễ mừng cầu phúc ngày 10 tháng 3, lễ dùng trên mâm chay, dưới tùy nghi hành lễ, ca hát mười ngày thì dừng.
Ngày lành tháng Giêng mùa Xuân năm Hồng Phúc nguyên niên bậc bề tôi Đại học sĩ Đông các của Viện Hàn Lâm là Nguyễn Bính phụng soạn bản chính.
Ngày lành tháng đầu Thu Hoàng triều Vĩnh Hựu năm thứ 6 bậc bề tôi là quan Bộ Lại Nội các, tuân theo bản chính cũ viết.
Bản phả lục một vị đại vương công thần triều Hán Chiêu Đế (chi Cấn bộ thượng đẳng), Bộ Lễ quốc triều chính bản.
Xưa Hùng Vương Sơn nguyên Thánh tổ khai vận mở đồ hơn hai mươi năm. Vua Hùng lập nước núi xanh vạn dặm, xây kinh đô Hùng, dựng nền cung điện, nước biếc thăm thẳm, bắt đầu đạo đế thánh vua minh, giúp vật giúp dân, thống nhất 15 bộ lấy tên là Bách Việt, là tổ tiên đầu tiên vậy.
Có thơ rằng:
Ban sơ Nam Việt từ Kinh Dương
Thống nhất núi sông mười tám vương
Mười tám đời truyền ngàn xưa đó
Vạn năm hương lửa vạn năm hương.
Truyền rằng:
Xưa nước Việt ta, Long Biên còn thuộc về Tây Hán. Bấy giờ có ông họ Đặng, tên húy là Vận, tổ tiên ngày trước đã được ban tước phong, đời nay kế thừa gia tài phúc ấm. Ông lấy vợ người bản quận, họ Tạ, tên húy là Cẩn, con nhà thi lễ, dòng dõi trâm anh, hai người rất xứng đôi. Thủa nhỏ ông rất tinh thông y thuật, thích làm điều thiện, vốn tính hay ban chẩn, giúp đỡ người nghèo, không ai là không giúp đỡ sinh sống, không vật nào bệnh tật mà không chăm dưỡng, từ việc nhỏ đến việc ác lớn đều không phạm, không có ý tư lợi cá nhân, được người địa phương đều nói là tích thiên thì gia đình sẽ gặp nhiều điều phúc.
Năm ông gần 60 tuổi, Tạ Thị đã ngoài 40 mà chưa có con trai. Về sau Tạ Thị nằm mơ thấy một con rắn tinh nhập vào mà có thai. Vào ngày 11 tháng 2 năm Giáp Ngọ, bà sinh được một cậu con trai, tướng mạo khác thường, thiên tư kỳ lạ. Năm lên 3 tuổi đã biết lễ nghĩa, thường hay kính nhường, theo học mà hiểu, nghe nhạc biết thẩm thấu. Lên 7 tuổi cho đi học, tinh thông kinh sử, rất giỏi võ nghệ, là một Cư sĩ đương thời. Sĩ tử ai nấy đều thán phục và gọi Ông là “Thánh đồng” (Thánh trẻ con). Năm 18 tuổi, cha mẹ qua đời. Ba năm phục tang xong, trong lòng ông thầm nghĩ phải lấy điển lễ lớn để dặn dạy sĩ dân.
Bấy giờ dân Giao Châu học hành chưa thấu, tam cương, cửu trù chưa biết thứ bậc. Ông liền thuận theo tự nhiên khuyên bảo những điều tốt lành. Nhờ đó mà dân biết được lễ nghĩa. Phong cách tốt đẹp của Nam châu có được cũng có công của Ông. Cảm phục sĩ dân mến mộ và cùng tôn ông làm Châu trưởng.
Thời Hán Chiêu Đế sai Chu Chương làm Thái thú Giao Châu. Chu Chương nghe danh tiếng Ông giáo hóa quy phục được dân chúng bèn dâng sớ tiến cử lên vua. Vua rất vui mừng, liền phong ông chức “Liệt Hầu”. Ông nhận mệnh đi xuống huyện ấp xem xét cuộc sống dân tình và phong cảnh nơi đây. Đến đạo Kinh Bắc (tên xưa là quận Bắc Giang), phủ Thuận An, huyện Gia Lâm, trại Gia Lâm, thấy phong tục tập quán nơi đây còn lạc hậu, kỹ nghệ còn sơ sài, Ông liền truyền thiết lập một nơi tại trại Gia Lâm để dạy học cho nhân dân. Mới được một năm, nhân dân đều ngưỡng mộ kính phục.
Gặp lúc tù trưởng của 7 quận: Châu Nhai, Đam Nhĩ, Thương Ngô, Quảng Tín, Phiên Ngung, Lộc Lĩnh, (Quế Lâm?) làm loạn, quấy nhiễu dân sinh. Vua nghe tin liền nói đình thần nào có thể dẹp yên sẽ cho làm Thái thú bản châu. Sầm Bành tiến cử ông có đức vọng, quy phục được lòng người, tất sẽ dẹp được. Vua bằng lòng lệnh ông cho cầm đầu châu đi dẹp loạn.
Ông tuyển chọn ở trại Gia Lâm được hơn 200 người, lại truyền hịch đi các quận huyện đến giúp thêm được vài vạn người. Ngay hôm đó tiến thẳng đến Cửu Chân, lệnh cho các tướng sĩ phân ra các đồn để giữ vững, không được khiêu chiến. Nhân đó, sai quan văn truyền hịch, khuyên cho họ hiểu tín nghĩa, bảo họ thấy rõ điều họa phúc. Giặc nghe thấy tỉnh ngộ bỏ binh khí, mũ giáp ra hàng, 7 quận giặc loạn đã được dẹp yên. Ông cho rút quân về phủ (tức đất Long Biên).Từ khi ông làm Thái thú, hình phạt được giảm nhẹ, dân chúng đều được yên ổn làm ăn. Ông lại thong thả đến cung Gia Lâm, dạy cho dân hiểu về ân nghĩa và tình đoàn kết. Nhân dân thấy đó mà cảm phục bèn thưa với Ông “nơi đây ngày nay là học đường, ngày sau làm nơi phụng thờ”. Ông bằng lòng, rồi cùng sĩ tốt về châu phủ.
Tới thời Ai Đế gặp lúc Vương Mãng nổi loạn, Ông mang quân đi trấn giữ cửa ải. Quân ông đi đến An Nam, bất ngờ quân Hán kéo đến. Ông nói, quân Hán đang đánh nhau với Vương Mãng thì cớ gì lại kéo sang nước Nam, liền sai đóng cửa quan không cho vào. Tướng Hán rất tức giận sai phá cửa quan tiến thẳng vào. Ông thấy quân Hán thế rất mạnh, liền rút quân về châu phủ. Chẳng bao lâu quân Hán đến kịp, nhân lúc đêm tối, chúng bủa chặt vòng vây. Ông cưỡi ngựa cự chiến, thoát vòng vây chạy ra ngoài. Đến Long Biên, ông ngửa mặt lên trời mà than rằng: Kẻ bề tôi vì vua mà chết, không có hai lòng, ta đến nông nỗi này có lẽ chỉ có trời mới hiểu vậy! Rồi quay lại không nhìn thấy Long Biên mà hóa (nhằm ngày 10/8). Một dải sông rộng nổi sôi sóng, giao long đưa tiễn. Quân Hán kinh sợ quay đầu chạy.
Việc này đến tai vua, vua sai sứ giả đến cúng tế ở đất Long Biên, phong làm phúc thần, cho người dân trong phủ lập miếu thờ, cùng với các nơi như Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam, Hải Dương, Gia Lâm, là những nơi Ông đã có công giáo hóa nhân dân, đều đón mĩ tự về phụng thờ.
Đến vua Bình Đế nghe sự tích của Ông có công giúp Hán đã sai sứ giả sắc phong Nhất phong Tế thế Hộ quốc Cư sĩ Đại vương.Tới tời Trần Thái Tông, giặc Nguyên xâm phạm, kinh thành bị vây. Trần Quốc Tuấn phụng mệnh cầu đảo bách thần, các đền miếu đều ghé qua, tới đạo Kinh Bắc, phủ Thuận An, huyện Gia Lâm, khu Gia Lâm (thời Trần là trang), ban đêm trú trong miếu thần, cầu thần âm phù dẹp giặc, sẽ phong là thượng đẳng thần.
Tới cuối canh tư Quốc Tuấn Công chợp mắt, bỗng mơ thấy một ông lão đầu bạc trắng tiến đến, tự xưng là Cư sĩ linh thần, nói rằng: ta là chính khí của Bắc triều, vết lưu của nước Nam, học vấn phong phú 5 xe, con đường sự nghiệp có thể coi là thành đạt, nay nghe tướng quân sang Đông dẹp giặc, tự nguyện theo âm phù giúp phép lập công, xin chớ lo lắng. Dứt lời thì biến mất trong không gian bao la. Tướng công tỉnh dậy, nhớ lại giấc mộng có thần thiêng hiển hiện trợ giúp, định ngày lành bái tạ, về lại kinh đô mà xuất chiến ở sông Bạch Đằng. Bỗng thấy trời đất mờ tỏ, gió to sóng lớn xuất hiện, quân tướng xuất hiện, thần linh phát động rắn rồng nổi lên mặt nước. Trần Quốc Công vung đao xông trận, Mã Nhi thua to, chém được tướng cầm đầu, còn tì tướng đầu rơi cả vạn, máu chảy thành sông, thây chất như núi.
Trừ hết giặc Nguyên, Trần Quốc Công về tâu lên Thái Tông rằng dẹp giặc Nguyên là có sự trợ giúp của thần. Thái Tông liền gia phong Âm phù Nhất vị Đương cảnh Thành hoàng Hộ pháp Cư sĩ Đại vương Hưng quốc Đồng hưu Vĩnh vi Kỳ vũ, kính vậy.
Truyền rằng: Từ đó về sau, đều linh thiêng hiển ứng, cho nên được nhiều các bậc đế vương phong thêm mĩ tự.
Đến đời Vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh Liễu Thăng, lấy được thiên hạ, Thái Tổ liền phong thêm: “Nhất vị Phổ tế Cương nghị Anh linh”. Sắc chỉ ban cho trang Gia Lâm trùng tu miếu điện để phụng thờ Ngài một cạnh trọng thể.
Phụng khai các tiết ngày sinh, ngày hóa cùng chữ húy “Vận, Cẩn, Cư sĩ” nhất thiết cấm. Cho phép trang Gia Lâm được phụng thờ.
Nhất sinh Thần ngày 11 tháng 2, theo lệ chính: lễ dùng trên mâm chay, dưới thịt lợn đen, xôi, rượu, ca hát, 3 ngày thì dừng.
Nhất hóa Thần ngày mùng 10 tháng 08, chính lệ lễ dùng trên mâm chay, dưới trâu lợn, xôi, rượu, bánh dày.Nhất lệ khi làm lễ mừng cầu phúc ngày 10 tháng 3, lễ dùng trên mâm chay, dưới tùy nghi hành lễ, ca hát mười ngày thì dừng.
Ngày lành tháng Giêng mùa Xuân năm Hồng Phúc nguyên niên bậc bề tôi Đại học sĩ Đông các của Viện Hàn Lâm là Nguyễn Bính phụng soạn bản chính.
Ngày lành tháng đầu Thu Hoàng triều Vĩnh Hựu năm thứ 6 bậc bề tôi là quan Bộ Lại Nội các, tuân theo bản chính cũ viết.
No comments:
Post a Comment